Nâng tầm công nghiệp hỗ trợ: Mở rộng dư địa xuất siêu

Kinh tế Việt Nam đang ghi nhận cột mốc mới khi tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tính đến ngày 15-11-2025 đã vượt 801 tỷ USD, xuất siêu 19,54 tỷ USD. Trong bức tranh đó, công nghiệp hỗ trợ (CNHT) nổi lên như “nền móng” cho các ngành xuất khẩu chủ lực và là trụ cột để Việt Nam tiến sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Sản xuất thiết bị phụ trợ tại Công ty TNHH CNS Amura Precision, Khu Công nghệ cao TPHCM Ảnh: HOÀNG HÙNG
Sản xuất thiết bị phụ trợ tại Công ty TNHH CNS Amura Precision, Khu Công nghệ cao TPHCM Ảnh: HOÀNG HÙNG

Xuất khẩu tăng mạnh nhưng thiếu bền vững

Nhóm hàng điện tử, máy móc và thiết bị tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng, riêng linh kiện điện tử tăng 48,3% so với cùng kỳ, đóng góp hơn 30 tỷ USD. Đây là tín hiệu rõ nét cho thấy Việt Nam ngày càng gắn kết chặt hơn với chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, lượng linh kiện và bán thành phẩm nhập khẩu vẫn ở mức rất cao: chỉ riêng linh kiện điện tử và máy móc đã vượt 9 tỷ USD. Điều này đặt ra thách thức về năng lực đáp ứng của doanh nghiệp (DN) trong nước.

Theo bà Cao Thị Phi Vân, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư TPHCM, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu không phản ánh rõ thực tế rằng CNHT trong nước chưa đáp ứng tương xứng nhu cầu của các ngành sản xuất chủ lực. Cơ hội tăng rất nhanh, nhưng năng lực hấp thụ của DN nội địa chưa theo kịp. Bài toán đặt ra là làm sao để tỷ lệ giá trị nội địa tăng tương ứng với quy mô mở rộng sản xuất.

Trong bối cảnh các chuỗi cung ứng đang dịch chuyển đầu tư đã mở ra cơ hội hiếm có cho Việt Nam. Thực tế ghi nhận, nhiều tập đoàn đang tìm nhà cung ứng cấp 2, cấp 3 tại Việt Nam. Tuy nhiên, cơ hội chỉ tận dụng được khi DN đủ năng lực kỹ thuật, quản trị chất lượng và đảm bảo giao hàng ổn định - những chuẩn mực bắt buộc trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Theo bà Trương Thị Chí Bình, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội CNHT Việt Nam, DN Việt chỉ có thể tiến sâu vào chuỗi khi chuyển từ cung cấp linh kiện đơn lẻ sang cụm linh kiện, sản xuất theo thiết kế của khách hàng và tự thiết kế sản xuất. Bởi chuỗi cung ứng giờ không chỉ mua linh kiện, mà mua cả năng lực thiết kế và vận hành. Điều này đòi hỏi DN phải tăng tỷ trọng nội địa hóa và nâng chuẩn toàn diện cả hệ thống.

Ở góc nhìn thực tế, ông Nguyễn Ngọc Đăng Khoa, Phó Giám đốc Phát triển kinh doanh SMC Precision, cho biết, các nhà mua hàng quốc tế hiện yêu cầu DN vận hành theo dữ liệu thời gian thực. Họ muốn thấy DN kiểm soát từng công đoạn bằng số liệu chứ không phải bằng giấy tờ. Ai không đáp ứng được sẽ bị loại khỏi cuộc chơi, dù có kinh nghiệm hay giá tốt. Cũng theo ông Khoa, hiện điểm nghẽn lớn nhất của DN nhỏ và vừa là thiếu vốn đầu tư máy móc, thiếu nhân lực kỹ thuật và thiếu khả năng chuẩn hóa quản trị theo tiêu chuẩn toàn cầu. Khi sản xuất mở rộng nhanh, nếu không có sự hỗ trợ đúng thời điểm, DN nội sẽ khó nắm cơ hội từ xu hướng tăng xuất siêu.

Doanh nghiệp nâng chuẩn, mở rộng liên kết

Để thu hẹp khoảng cách giữa năng lực DN nội địa và tốc độ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, TPHCM với vai trò đầu tàu kinh tế đang lựa chọn hướng phát triển đi vào chiều sâu, tập trung xây dựng hệ sinh thái CNHT đủ sức nâng đỡ cho các ngành xuất khẩu chủ lực. Trên nền không gian kinh tế mở rộng 6.772km2 , GRDP hơn 123 tỷ USD và khoảng 20.000 dự án vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn hiệu lực, thành phố xác định rõ: muốn giữ dư địa xuất siêu bền vững, phải nâng tỷ lệ giá trị nội địa ngay trong từng sản phẩm.

Theo bà Cao Thị Phi Vân, điểm nghẽn lớn nhất không phải là thiếu cơ hội, mà là thiếu điều kiện để DN nâng cấp về công nghệ và quản trị. Do đó, TPHCM đang rà soát và điều chỉnh các chính sách đất đai, thuế, tín dụng theo hướng ưu tiên dự án linh kiện, bán thành phẩm. Nếu không giảm chi phí đầu vào và rủi ro tài chính, rất khó yêu cầu DN nhỏ và vừa mạnh dạn đầu tư dây chuyền, nhà xưởng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là nền cứng cần thiết để DN có thể tự tin nâng chuẩn.

Trên cơ sở đó, thành phố thúc đẩy hình thành các khu và cụm công nghiệp chuyên sâu, thiết kế như một chuỗi giá trị khép kín từ nghiên cứu, thiết kế, gia công, xử lý bề mặt, kiểm định và logistics. Dự án khu công nghiệp cơ khí chuyên ngành 786ha với tổng mức đầu tư hơn 75.000 tỷ đồng do THACO Industries đề xuất là ví dụ tiêu biểu. Theo ông Huỳnh Quang Nhung, Phó Tổng Giám đốc Kinh doanh THACO Industries, mô hình này đặt mục tiêu hơn 70% doanh thu đến từ xuất khẩu, đồng thời tạo không gian liên kết để DN cơ khí và CNHT phía Nam bước vào chuỗi ở nhiều cấp độ, từ gia công đến liên doanh sản xuất. Như vậy, hạ tầng không chỉ là nơi đặt nhà máy mà trở thành không gian lan tỏa tiêu chuẩn kỹ thuật cho cả hệ sinh thái.

Song song đó, TPHCM coi chuyển đổi số và phát triển nhân lực là mũi nhọn giúp doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của nhà mua hàng quốc tế. Thành phố thúc đẩy chương trình “may đo” kỹ năng cho lao động kỹ thuật, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản trị nguồn lực doanh nghiệp, hệ thống thực thi sản xuất và hệ thống quản lý kho thông minh để vận hành theo dữ liệu thời gian thực. PGS-TS Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam, nhấn mạnh, đây là điều kiện tối thiểu để đáp ứng truy xuất nguồn gốc và tự động hóa kiểm soát chất lượng.

Một trụ cột khác là tăng cường kết nối cung - cầu thông qua hội chợ chuyên ngành và các chương trình kết nối doanh nghiệp. Nhờ tiếp cận trực tiếp bộ phận thu mua của các tập đoàn quốc tế, doanh nghiệp nội nắm rõ tiêu chuẩn kỹ thuật, nhu cầu sản lượng và lộ trình nội địa hóa. Theo bà Trương Thị Chí Bình, chính những “cuộc gặp” này quyết định doanh nghiệp Việt có bước được vào chuỗi hay không.

Khi các mảnh ghép từ thể chế, hạ tầng, công nghệ đến thị trường được hoàn thiện, TPHCM kỳ vọng CNHT sẽ chuyển từ vai trò bổ trợ thụ động sang động lực chủ động của tăng trưởng. Và khi DN nội đủ sức đảm nhận nhiều công đoạn hơn trong chuỗi giá trị, dư địa xuất siêu của Việt Nam sẽ không chỉ đến từ số lượng hàng hóa xuất khẩu, mà đến từ phần giá trị gia tăng được tạo ra và giữ lại trong chính dây chuyền sản xuất trong nước.

Đổi mới công nghệ để vượt “ngưỡng” nhà cung cấp

Bà Lê Nguyễn Duy Oanh, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển CNHT thuộc Sở Công thương TPHCM, nhấn mạnh, yêu cầu nâng chuẩn doanh nghiệp CNHT đang trở nên cấp thiết khi chuỗi cung ứng toàn cầu tái cấu trúc và các tập đoàn FDI liên tục siết tiêu chuẩn lựa chọn nhà cung ứng. TPHCM đã triển khai chương trình tổng thể đánh giá - cải thiện doanh nghiệp theo mô hình Nhật Bản và Hàn Quốc, trong đó từng doanh nghiệp được rà soát quy trình, nhận diện điểm yếu và xây dựng lộ trình cải tiến phù hợp. Mục tiêu không chỉ tăng số doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng mà còn hình thành lực lượng nhà cung ứng đáp ứng tiêu chuẩn khu vực.

Thành phố đồng thời thúc đẩy xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông và bản đồ năng lực CNHT dự kiến công bố năm 2026. Công cụ này sẽ giúp các tập đoàn FDI nhanh chóng tìm kiếm nhà cung ứng nội địa theo ngành hàng, quy mô và năng lực kỹ thuật, đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp địa phương tiếp cận đơn hàng thực chất hơn. Theo bà Oanh, hệ sinh thái CNHT chỉ mạnh khi doanh nghiệp chủ động đầu tư công nghệ, chuẩn hóa quy trình và dịch chuyển sang phân khúc có hàm lượng kỹ thuật cao.

Liên kết vùng để tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa

Ông Kiều Mạnh Kha, Giám đốc Công ty TNHH Aspire, cho rằng, TPHCM và vùng Đông Nam bộ đang sở hữu lợi thế hiếm có khi vừa tập trung hệ thống khu công nghiệp - khu chế xuất quy mô lớn, vừa là trung tâm dịch vụ, logistics và đổi mới sáng tạo của cả nước. Tuy nhiên, DN CNHT vẫn phân tán, thiếu cụm liên kết ngành, dẫn đến chi phí cao và khó tiếp cận trực tiếp các tập đoàn FDI. Muốn tăng nhanh tỷ lệ nội địa hóa, vùng cần chuyển từ tư duy mỗi địa phương là một điểm đến sang tư duy cả vùng là một tổ hợp cung ứng, với TPHCM đóng vai trò hạt nhân kết nối Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu trước đây.

Ông Kha đề xuất hình thành các “hành lang CNHT” gắn khu công nghiệp chuyên sâu với trung tâm nghiên cứu phát triển (R&D), đại học kỹ thuật và đơn vị logistics; triển khai chương trình huấn luyện chung về quản trị chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn quốc tế và ESG cho doanh nghiệp trong vùng. Cùng với đó là cơ chế chia sẻ đơn hàng giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. Với các dự án như khu công nghiệp cơ khí hay các cụm sản xuất điện tử, ô tô mới, Nhà nước nên khuyến khích mô hình trung tâm phân phối đơn hàng, trong đó doanh nghiệp đầu chuỗi nhận đơn lớn rồi phân tách, giao lại cho các nhà cung cấp vệ tinh.

Tin cùng chuyên mục