(SGGPO).- Nghị quyết về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020 vừa được Quốc hội thông qua sáng 9-11 với tỷ lệ tán thành cao (86,64% trên tổng số ĐBQH).
Nghị quyết nêu rõ yêu cầu bảo đảm an toàn nợ công với mục tiêu: nợ công hàng năm không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 54% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia dưới 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không bao gồm cho vay lại) không quá 25% so với tổng thu ngân sách Nhà nước hàng năm.
Trước đó, báo cáo giải trình trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho biết, nhiều ý kiến đề nghị, trong giai đoạn 2016-2020 không tăng trần nợ công vượt quá 65% GDP và cân nhắc nợ Chính phủ chỉ ở mức 53% GDP vì năm 2016 đã vượt giới hạn này, có thể ở mức 54-55% GDP. Nợ công giai đoạn 2011-2015 tăng nhanh, tốc độ tăng bình quân khoảng 18,4%/năm, gần chạm ngưỡng cho phép (65% GDP), không bảo đảm an ninh, an toàn tài chính quốc gia.
Giai đoạn 2016-2020, Quốc hội đề nghị Chính phủ kiểm soát chặt chẽ mức nợ công theo đúng nghị quyết của Quốc hội.
Đối với nợ Chính phủ, đầu năm nay đã vượt giới hạn quy định (50,3% GDP so với quy định là không quá 50%).
UBTVQH lưu ý, giới hạn dư nợ Chính phủ ở mức 53% GDP cho cả giai đoạn 5 năm là rất khó thực hiện do năm 2016 đã vượt giới hạn này (53,2% GDP). Do vậy, vừa bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, vừa bảo đảm mức hợp lý trong quá trình quản lý, tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép nợ Chính phủ không quá 54% GDP.
Một số chỉ tiêu quan trọng khác cũng được Quốc hội quyết định tại Nghị quyết vừa được thông qua. Theo đó, tổng thu ngân sách Nhà nước cả giai đoạn 2016-2020 khoảng 6.864 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 1,65 lần so với giai đoạn 2011-2015; bảo đảm tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước không thấp hơn 23,5% GDP.
Tổng chi ngân sách Nhà nước cả giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 8.025 nghìn tỷ đồng, trong đó, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển chiếm bình quân khoảng 25-26% tổng chi ngân sách Nhà nước; giảm tỷ trọng chi thường xuyên xuống dưới 64% tổng chi ngân sách Nhà nước. Ưu tiên đảm bảo chi trả nợ, chi dự trữ quốc gia.
Đáng lưu ý, báo cáo giải trình của UBTVQH đề cập đến việc điều chỉnh tiền lương. Cụ thể, trong giai đoạn 2011-2015, ngân sách đã thực hiện một phần lộ trình cải cách tiền lương: điều chỉnh tăng tiền lương cơ sở 3 lần, 1 lần thực hiện phụ cấp công vụ 25%, 1 lần điều chỉnh tăng 8% đối với lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công và tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang có thu nhập thấp (hệ số lương từ 2,34 trở xuống).
Tuy chưa thực hiện được mục tiêu đã đề ra, song điều này cũng đã thể hiện sự cố gắng rất lớn của Chính phủ trong việc thực hiện cải cách tiền lương, đặc biệt trong bối cảnh quy mô thu ngân sách tăng chậm, trong khi áp lực chi đầu tư phát triển, chi trả nợ và thực hiện các chính sách an sinh xã hội rất lớn…
Giai đoạn 2016-2020, để góp phần nâng cao đời sống cho người hưởng lương, trên cơ sở định hướng thu, chi ngân sách 5 năm, Chính phủ trình Quốc hội dự kiến bố trí nguồn để điều chỉnh mức lương cơ sở, lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công tăng bình quân khoảng 7%/năm.
Căn cứ tình hình thực tế, mức điều chỉnh cụ thể sẽ được Quốc hội xem xét, quyết định trong dự toán ngân sách hằng năm. UBTVQH đề nghị Chính phủ, trong điều hành, cần căn cứ khả năng thu, phấn đấu điều chỉnh tăng lương cơ sở, lương hưu, trợ cấp ưu đãi với mức tăng bình quân cao hơn so với mức Chính phủ trình.
ANH PHƯƠNG