Khơi thông nguồn lực doanh nghiệp nhà nước

Ngày 1-8, Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sửa đổi) có hiệu lực (sớm hơn 4 tháng so với thời hiệu dự kiến ban đầu), nhằm kịp thời khơi thông tối đa các nguồn lực hiện có trong doanh nghiệp nhà nước. Phóng viên Báo SGGP đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ về những điểm mới nổi bật trong luật và tác động của luật đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ nay đến năm 2030.

PHÓNG VIÊN: Thưa ông, những điểm đổi mới nào của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (sửa đổi) được xem là “đột phá” so với quy định hiện hành?

D1a.jpg
TS Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ

* TS NGUYỄN ĐỨC KIÊN: Nếu cần chọn ra những điểm mới mang tính “đột phá” về thể chế, tôi cho là có 3 khía cạnh. Thứ nhất, trao quyền tự chủ mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bởi được quyết định chiến lược, kế hoạch kinh doanh, chính sách lương thưởng, phương án huy động vốn… trên nguyên tắc thị trường. Thứ hai, tách bạch vai trò của Nhà nước là cơ quan quản lý với tư cách chủ sở hữu vốn. Cơ quan đại diện chủ sở hữu sẽ không can thiệp vào vận hành thường xuyên của doanh nghiệp (DN) như trước, mà chỉ giám sát theo kết quả đầu ra. Thứ ba, mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật tới các DN có vốn nhà nước chi phối và tổ chức tín dụng có trên 50% vốn nhà nước, thay vì chỉ áp dụng với DNNN nắm 100% vốn điều lệ như trước.

Những thay đổi đó liệu có đủ để tạo ra chuyển biến thực chất trong khu vực DNNN, một khu vực vốn được xem là “lớn nhưng chưa mạnh”?

* Tôi tin là có. Luật mới không chỉ tạo hành lang pháp lý ổn định, mà còn giúp DN tháo gỡ các điểm nghẽn nội tại. Chẳng hạn, trước đây, kế hoạch kinh doanh 5 năm của DNNN thường chậm được ban hành vì phải chờ phê duyệt, nhưng giờ đây, luật cho phép DN tự lập, tự triển khai. Cơ quan chủ sở hữu chỉ giám sát các chỉ tiêu chủ yếu như: doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất sinh lời…

Bên cạnh đó, cơ chế phê duyệt đầu tư, vay vốn được thay thế bằng hình thức báo cáo - giám sát. Điều này giúp DNNN phản ứng linh hoạt hơn với thị trường, không bị lỡ cơ hội. Đặc biệt, luật cho phép trích tới 50% lợi nhuận sau thuế vào quỹ đầu tư phát triển, từ đó gỡ nút thắt về tái đầu tư, đổi mới công nghệ. Mặt khác, DNNN được toàn quyền quyết định chính sách tiền lương, tiền thưởng, thù lao cho người lao động và cán bộ quản lý trên cơ sở quỹ lương được giao; chấm dứt tình trạng “xin - cho” trong quản lý nội bộ - vốn làm giảm động lực cạnh tranh của DNNN.

Điểm đột phá khác là gỡ bỏ các rào cản về ngành nghề đầu tư, trong đó có bất động sản, là lĩnh vực mà trước đây DNNN bị giới hạn hoặc không được tham gia. Cùng với đó, các DN mà Nhà nước nắm trên 50% vốn điều lệ còn được phép cho “công ty con” vay nội bộ theo quy định riêng, góp phần tăng tính linh hoạt trong quản trị dòng vốn…

Với những quy định mới mang tính đột phá như trên sẽ góp phần thế nào vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ nay đến năm 2030, đặc biệt là để đạt được mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm nay?

* Cả nước hiện có hơn 670 DNNN, đang nắm giữ một lượng tài sản lên tới gần 4 triệu tỷ đồng (số liệu do Bộ Tài chính cung cấp vào cuối năm 2024), đóng góp gần 30% GDP. Nếu tận dụng tốt, khu vực DNNN hoàn toàn có thể góp phần cùng với khu vực tư nhân và DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng “về đích”. Trong dài hạn, khi DNNN thật sự vận hành theo nguyên tắc thị trường, minh bạch, hiệu quả, sẽ trở thành lực lượng chủ lực trong các ngành trụ cột, từ đó tạo đòn bẩy lan tỏa cho khu vực tư nhân và FDI.

xhh-8a-8873-9160.jpg.jpg
Nhân viên Tổng Công ty Điện lực TPHCM kiểm tra hệ thống cung cấp điện. Ảnh: CTV

Tới đây, Chính phủ sẽ trình Bộ Chính trị đề án phát triển DNNN. Sự phát triển của DNNN có quan hệ như thế nào với khu vực tư nhân, được coi là một trụ cột quan trọng nhất của nền kinh tế?

* Tôi cho rằng không có mâu thuẫn gì, nếu chúng ta thiết kế chính sách thông minh. Khu vực kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất, đúng như Nghị quyết 68-NQ/TW đã nêu, trong khi DNNN là lực lượng ổn định, giữ vai trò dẫn dắt trong những lĩnh vực then chốt như hạ tầng, năng lượng, quốc phòng - an ninh, mà tư nhân chưa thể tham gia hoặc không muốn tham gia.

Sự phát triển của DNNN không triệt tiêu không gian phát triển của tư nhân, mà có thể tạo đòn bẩy. DNNN đầu tư lớn, kéo theo chuỗi cung ứng, dịch vụ, công nghệ - nơi tư nhân có thể tham gia sâu và hưởng lợi. Với khu vực FDI, một DNNN được quản trị tốt có thể trở thành đối tác, không phải đối thủ trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Vậy đâu là những khuyến nghị chính sách để bảo đảm cả 3 khu vực DNNN - tư nhân - FDI cùng phát triển bền vững?

* Tôi có 3 đề xuất. Trước hết là bảo đảm bình đẳng thể chế. Luật pháp phải áp dụng thống nhất về đầu tư, thuế, cạnh tranh, kể cả với DNNN không đặc quyền, không ưu đãi trá hình. Thứ hai, phát triển DNNN tập trung vào các lĩnh vực cần dẫn dắt chiến lược (logistics, năng lượng, đổi mới công nghệ...), chứ không tràn lan. Thứ ba, tăng cường liên kết vùng và liên kết 3 khu vực kinh tế. DNNN nên được giao nhiệm vụ “kéo” các cụm công nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm, cùng tư nhân và FDI xây dựng hệ sinh thái ngành, từ đó nâng sức cạnh tranh quốc gia.

Một số ý kiến băn khoăn rằng, nếu trao quá nhiều quyền tự chủ cho DNNN, liệu có dẫn tới lạm quyền hoặc thiếu kiểm soát? Thực tế đã có không ít lãnh đạo tập đoàn nhà nước vướng vòng lao lý!

* Băn khoăn đó cũng xác đáng, nhưng chính vì vậy mới phải siết chặt trách nhiệm giải trình và tăng cường giám sát.

Theo quy định mới, chủ tịch hội đồng thành viên, tổng giám đốc và người đại diện phần vốn nhà nước phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước Thủ tướng nếu để thất thoát vốn. Bộ Tài chính cũng xây dựng 3 nghị định quy định chi tiết Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại DN (sửa đổi), trong đó có nội dung về xếp loại, công khai thông tin và giám sát DN, đảm bảo không có vùng trống về trách nhiệm. Vì vậy, để khơi thông nguồn lực DNNN, cần hai điều kiện tiên quyết. Thứ nhất là đội ngũ lãnh đạo DNNN phải thay đổi tư duy. Từ chỗ “xin - cho” sang tư duy thị trường, từ chỗ quản lý vốn nhà nước sang tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội. Thứ hai, các cơ quan quản lý phải khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn, tránh tình trạng “luật có hiệu lực mà DN vẫn đứng ngoài”.

Ngày 24-7-2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1588/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng đề án về phát triển kinh tế nhà nước theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước do Thủ tướng Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo. Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ xây dựng đề án về phát triển kinh tế nhà nước theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, trong tháng 9-2025 trình Bộ Chính trị ban hành nghị quyết về kinh tế nhà nước. Bộ Tài chính là cơ quan thường trực giúp Ban Chỉ đạo triển khai xây dựng đề án.

Tin cùng chuyên mục