
Nhân ngày giỗ lần thứ 11 (5-1996 – 5-2007) của nhạc sĩ Xuân Hồng, Báo SGGP trích đăng bài viết của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ về nhạc sĩ Xuân Hồng.
Tôi quen thân nhạc sĩ Xuân Hồng vào khoảng giữa năm 1967, tại Khu Văn công Cầu Giấy Hà Nội - nơi đóng quân của Đoàn Văn công Quân giải phóng sắp lên đường đi biểu diễn ở một số nước xã hội chủ nghĩa. Tướng tá anh Ba Xuân Hồng coi có vẻ “bặm trợn”, to con, mập mạp, nước da tai tái sẫm màu. Anh luôn mang chiếc xắc cốt bằng da bên hông, giống cán bộ tham mưu tác chiến, chớ không giống tác giả Bài ca may áo và Xuân chiến khu mà bấy lâu tôi hằng tưởng tượng.

Nhạc sĩ Xuân Hồng đàn, Nghệ sĩ ưu tú Lệ Thủy hát.
Tôi còn nhớ khi tốp ca nữ của Đoàn ca múa miền Nam dàn dựng Bài ca may áo mà không kiếm được những chiếc khăn rằn chính hiệu của miền Nam, cho nên họa sĩ N.A.Đ bèn lấy sơn ta vẽ chằng chịt những đường dọc ngang trên những tấm khăn lụa cho các cô ca sĩ tha hồ thể hiện. Khi choàng ngang vai, khi quấn quanh cổ, rồi lại lau chấm những giọt mồ hôi trên má mà gởi gắm chút tình đến các anh Giải phóng quân. Ai dè hôm sau, mấy cô trong tốp ca bị dị ứng sơn ta, mặt mày sưng vù, vừa nóng vừa ngứa!
Từ chiến trường ra Bắc, anh Xuân Hồng dành dụm số tiền nhuận bút tậu một chiếc xe máy dầu hơi bị... cũõ! Anh được bố trí ở số 10 Đường Thành. Cứ mỗi đêm, anh cùng với Cương (nhạc công kèn từ Văn công Quân giải phóng ra Bắc dưỡng bệnh), hai thầy trò hì hục tập lái xe. Xe bình bịch này thường hay dở chứng, làm reo. Nó là “cục nợ” của “Già làng sóc Bom Bo” đó...
Anh Ba Xuân Hồng có cái duyên chơi chữ. Từ năm 1969, anh được cử đi học đại học sáng tác tại Trường Âm nhạc Việt Nam, Hà Nội. Trong lớp, anh là người lớn tuổi nhất, được các bạn đồng môn gọi là bác Ba. Vì vậy, anh hay nói đùa, tự xưng là nhà “Bác học”!
Đầu năm 1970, tôi chuẩn bị lên đường về chiến trường miền Nam, chúng tôi kéo đến căn phòng của anh Ba làm một bữa tiệc chia tay. Anh Ba cao hứng ôm đàn ghi ta, chúm chím miệng nghêu ngao bài Cây dừa mới ra lò: “Quê hương ơi! Đẹp lắm những cây dừa”...
Về cái “duyên Xuân Hồng”, trong tản văn Giữa trưa, bỗng nhớ Xuân Hồng của Lê Giang đã viết: “... Anh Ba Xuân Hồng có tài kể chuyện, ảnh kể có duyên, còn chép chép cái miệng thêm thắt tình tiết tục mà thanh”.
Trong lời giới thiệu tập Tuyển chọn ca khúc Xuân Hồng, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước nhận xét: “Trong ca khúc Xuân Hồng, thật khó chỗ nào tác giả đã xây dựng câu nhạc dựa theo cốt cách lời ca là văn vần, và chỗ nào đã phổ lời ca theo nhạc điệu, vì nhạc và lời gắn bó mật thiết với nhau. (...) Với Xuân Hồng, một thủ pháp nổi bật, mà có lẽ chưa nhạc sĩ nào đạt tới, là chăm sóc “cước vận” - vần cuối câu - đồng thời tận dụng với hiệu quả lấp lánh của “yêu vận” - vần giữa câu”.
* Như trong Bài ca may áo:
- Máy may nhanh rừng xanh vọng tiếng. Chí căm thù ta biến thành tơ...
- Áo may xong mùa đông đã đến. Gởi chút tình thương mến về anh. Áo xếp nhanh chờ anh giải phóng...
* Trong Xuân chiến khu:
- Mai này xuân về hoa nở khắp nhà, tìm anh bộ đội em tặng món quà, cùng anh kể chuyện đã qua, những ngày chiến chinh đời anh xông pha...
* Trong Tiếng chày trên sóc Bom Bo:
- Có ai đi về phía những hàng cây, mời vô đây cùng nghe khúc nhạc hay, khúc nhạc đêm nay dùng nhịp đệm bằng chày...
- Nay dẫu còn gian khổ, mồ hôi ta đã đổ, làm nương phá rẫy giữ lấy quê hương. Người hậu phương tiếp lương gùi đạn, ta bên bạn là bạn bên mình cùng đồng tình là giặc thua ta...
* Trong Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh:
- Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh quang vinh. Ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào. Sài Gòn ơi, cả nước vẫy chào. Cờ sao đang tung bay cao, qua hết rồi những năm thương đau. Xa ba mươi năm, nay đã gặp nhau, vui sao nước mắt lại trào...
* Trong Người mẹ của tôi:
- Khi con đi qua khắp nẻo đường nghe đau thương chìm trong khói hương. Mong sao cơn mưa gió vô thường, không lung lay làm rớt hạt sương...
Tài điêu luyện đó của anh Ba Xuân Hồng là sự kế thừa và phát huy từ trong vốn liếng thơ ca dân gian và âm nhạc truyền thống do ông bà ta để lại, đem lại những “khoái cảm thẩm mỹ hồn nhiên cho công chúng; dù hát bằng miệng hay nghe bằng tai, lời ca và nhạc điệu thấm “ngọt” vào tận ruột gan”*.
Bài nói vè Bậu lỡ thời, gồm 26 câu, vốn phổ biến khắp Nam bộ. Điệu nói vè này trêu ghẹo những cô gái (con nhà giàu) đến tuổi cặp kê mà cứ kén chọn, cho đến lúc phải chịu cảnh ế chồng. Là một bài vè được diễn xướng khá độc đáo: hai người thay nhau hát từng câu, người này xướng câu trước, người nọ đế câu sau như lối đối đáp:
Gốc tre khô người ta còn chuộng
Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang...
Nhạc sĩ chọn bài vè bình dân này (vốn nghèo giai điệu), bắt đầu từ câu thứ bảy (Ớt chín cây người ta còn hái) “xào nấu” thành Bài ca may áo một cách tài tình.
Bài bản Bình bán vắn vốn được lưu truyền từ lâu, tựa hồ như đã hóa thành một câu ca cửa miệng từ tuổi ấu thơ:
Trăng kìa trăng lú lên
Hai đứa mình xúm xít ngồi chơi.
Xuân Hồng khai thác bằng cách biến tấu (kết hợp với bài Liễu Thuận Nương) để làm ra ca khúc Xuân chiến khu mang nhịp đập hơi thở thời đại trong những năm kháng chiến chống Mỹ.
Sử dụng giai điệu dân gian như là yếu tố âm nhạc đầu tiên của bài hát, sau đó nhạc sĩ có thể tự do phát triển, vừa bám lấy cốt cách của dân ca, vừa làm giàu hình tượng âm nhạc mà tác phẩm muốn thể hiện.
Ví dụ, dựa vào mô típ của điệu Lý bình vôi:
Lỡ bằng tay/ rớt bằng bể/ ông bằng bình/ vôi bằng vôi/
Chủ bằng gia/ bắt bằng được/ đọa bằng đày/ xứ bằng xa....
Xuân Hồng mở đầu Tiếng chày trên sóc Bom Bo mô phỏng nhịp chày giã gạo. Còn Huỳnh Thơ cũng bắt đầu bài Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long bằng nét nhạc lấy từ điệu lý trên. Chính nét nhạc (âm điệu và tiết điệu) dân ca đã trở thành cái đà đẩy đến sự sáng tạo tiếp theo của hai ca khúc.
***
Anh Ba Xuân Hồng sinh ngày 12-2-1928 tại xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Cùng tuổi Mậu Thìn trong giới nhạc sĩ sáng tác Việt Nam có trên mười “con rồng”, như: Hoàng Việt, Trần Hoàn, Văn Lưu, Văn Cận, Văn Ký, Lương Ngọc Trác, Trần Chung, Ngô Sĩ Hiển, Nguyễn Mạnh Thường, Huy Sô, Quốc Anh. Thật xứng đáng là những “Rồng vàng” trong âm nhạc...
Anh Bảy Hoàng Việt đã từng thề thốt: “Cho đến chết mới hết sáng tác cho đời”. Còn anh Ba Xuân Hồng thì “sắp chết vẫn chưa hết sáng tác cho đời”. Dường như anh đã linh cảm sắp lìa khỏi cõi đời này, cho nên trong 4 tháng đầu năm 1996, anh vừa chống chọi lại bệnh tật vừa hối hả hoàn thành 7 ca khúc cuối cùng. Đó là Gương mặt mùa xuân, Đà Lạt cuối thu (thơ P.N. Thường Đoan), Biết nói cùng ai (thơ Hồ Thụy Mỹ Hạnh), Khi người lính trở về (thơ Thượng tướng Trần Văn Trà), Người đẹp phố tôi (thơ Vân An), Hồn hoa (thơ Lê Minh Quốc) và Đứng giữa đồng không (thơ Vũ Hữu Định).
Nhạc sĩ LƯ NHẤT VŨ