CIA và các tướng lĩnh Sài Gòn - Kỳ 10: Thời điểm sinh tử

CIA và các tướng lĩnh Sài Gòn - Kỳ 10: Thời điểm sinh tử

Ngày 10-3-1975, Cộng sản mở màn cuộc tấn công và chiếm lĩnh Buôn Ma Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc. TP Pleiku bị đe dọa và trưởng cơ sở CIA Don Nicol tại Pleiku gửi báo cáo khẩn hàng ngày về cơ sở CIA Nha Trang. Không nhận được chỉ thị nào của Sài Gòn, ngày 13-3, Nicol họp toàn bộ nhân viên tình báo tại Pleiku và tự động phác họa một kế hoạch dự phòng di tản cho toàn bộ nhân viên Mỹ - Việt có liên hệ với CIA.

Pleiku, Kon Tum thất thủ

Trong khi đang họp, Nicol nhận được điện thoại của đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 cho biết các vị trí của quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đang bị đe dọa và khuyên người Mỹ nên rút khỏi Pleiku. Lý cho Nicol biết ngày 14-3, tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với Tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Quy Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lý hứa với Nicol có tin gì sau khi Phú đi họp về, Lý sẽ cho hay…

Chiều 14-3, sau khi Nicol đã đi Nha Trang, Stephens (phụ tá của Nicol) đến Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 kiếm tin về cuộc họp giữa Phú và Thiệu. Stephens gặp Lý trước, Lý chưa nói được gì thì Phú bước vào. Stephens thấy Phú có vẻ thất sắc và mất bình tĩnh nhưng Stephens nghĩ Phú đang lo về tình hình quân sự xấu đi của vùng 2 chứ không liên quan gì đến nội dung chỉ thị của Thiệu trong cuộc họp buổi sáng tại Cam Ranh.

Hôm đó, Stephens không lấy được tin gì. Ngày hôm sau, Stephens trở lại với hy vọng có tin mới. Khi xe chạy qua sân bay Pleiku, Stephens không thấy các máy bay phản lực của Không quân VNCH thường đậu ở đó. Đến Bộ Tư lệnh, Stephens thấy đồ đạc vương vãi như đang dọn nhà. Nửa giờ sau, Stephens tìm được Lý. Lý kéo Stephens ra một chỗ vắng và sau khi căn dặn tuyệt đối giữ kín, Lý cho Stephens biết Thiệu ra lệnh tướng Phú bỏ Pleiku và Kon Tum. Stephens vội vàng thông báo tin cho cố vấn tỉnh Đắc Lắc Earl Thieme, rồi đi tìm gặp Phú để xác nhận. Thi hành lệnh của Tổng thống Thiệu không cho người Mỹ biết quyết định rút quân ra khỏi Pleiku và Kon Tum, tướng Phú nói với Stephens, ông cho dời Bộ Chỉ huy Quân đoàn về Nha Trang cho an toàn chứ không có ý bỏ Pleiku và Kon Tum. Tuy nhiên - cũng như đại tá Lý - Phú khuyên người Mỹ nên rời khỏi Pleiku.

Nhận được báo cáo của Chin, Polgar còn đang lượng định sự xác tín của nguồn tin, thì lãnh sự Mỹ tại Nha Trang Moncrieff Spear và Chin đã khẩn khoản yêu cầu và Polgar chấp thuận cho tất cả nhân viên Mỹ rời khỏi Pleiku và Kon Tum. Sau khi toàn bộ nhân sự tình báo về đến Nha Trang với máy giải mã và vũ khí, Phó CIA Sài Gòn LaGueux dùng máy bay đích thân bay quan sát và chụp hình đoàn quân rút lui của tướng Phú trên đoạn đường Pleiku – Phú Bổn. LaGueux thấy cuộc rút lui vô cùng hỗn độn.

Ngày 17-3, tướng Viên, được phép của Thiệu, chính thức thông báo cho tướng Homer Smith, tùy viên quân lực Mỹ biết quân đội VNCH đang rút ra khỏi Pleiku và Kon Tum. Viên xin lỗi tướng Smith đã không thông báo sớm hơn vì lệnh của Tổng thống Thiệu.

Ngày 14-3, trong khi Tổng thống Thiệu gặp các tướng Phú, Khiêm, Viên, Quang tại Cam Ranh thì Polgar đang nhức đầu vì mất Buôn Ma Thuột và áp lực Cộng sản nặng nề tại tỉnh Tây Ninh. Theo Polgar, cường độ của cuộc tấn công vượt quá trận tấn công 1972. Bình nói với Polgar rằng quân đội VNCH đang cố gắng tái chiếm Buôn Ma Thuột và việc chiếm lại được hay không sẽ quyết định vận mệnh của Nam Việt Nam…

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng. Ảnh: T.L.

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Đà Nẵng. Ảnh: T.L.

Tháo chạy khỏi cao nguyên

Trong khi Hà Nội đang mở cuộc tấn công, Đại sứ Martin đang chữa răng ở Mỹ, và - theo Polgar - các phụ tá của Martin không đủ khả năng để nắm tình hình cho nên các báo cáo có chất lượng phản ánh thực tế đều do CIA báo cáo.

Ngày 20-3, Langley yêu cầu Polgar cho biết sự tính toán của Thiệu trước tình hình đổ vỡ nhanh chóng và cho Polgar biết Washington đang chuẩn bị một chương trình giúp người tị nạn từ miền Trung vào.

Ngày 21-3, trong khi quân đội miền Nam Việt Nam đang rút chạy từ cao nguyên về miền duyên hải thìTòa Đại sứ Mỹ một mặt làm ra vẻ bình tĩnh để trấn an dư luận, một mặt không cho thân nhân của nhân viên Tòa đại sứ đến Sài Gòn nữa và không làm gì khác để đối phó với tình hình.

Thấy được tâm lý đó, Polgar và LaGueux ra sức làm những gì có thể để che đậy tâm lý chủ bại của Tòa đại sứ. Polgar thuyết phục Tổng thống Thiệu tái tổ chức, tìm cách nâng cao tinh thần binh sĩ và không ngừng mời Quang, Bình, Nhã dùng cơm để bàn việc.

Ngày 22-3, Polgar cho Khiêm và Quang xem các tấm ảnh chụp từ trên không cảnh rút quân hỗn loạn và những tổn thất của quân đội VNCH trên đường Pleiku - Phú Bổn. Ngày hôm sau, Quang trình các tấm ảnh đó cho Thiệu xem. Đại tá William Legro cũng thuyết trình cho một số tướng lĩnh VNCH tình hình bi đát qua những bức ảnh này.

Chủ nhật 23-3, Polgar báo cáo về Washington rằng, Hà Nội đang thắng lớn, Nam Việt Nam đang thua đậm trong khi Tòa Đại sứ Mỹ bất động! Polgar cho biết Hà Nội đã đưa 5 sư đoàn trù bị (có nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc) vào Nam, bỏ ngỏ miền Bắc và yêu cầu Langley thông báo cho Ngoại trưởng Kissinger và Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger rằng – theo nhận xét của ông – miền Nam Việt Nam đang sụp đổ.

Chiều hôm đó, Langley hỏi Polgar quân đội Nam Việt Nam tổn thất đến mức độ nào và Thiệu tính phản công ra sao để Mỹ kịp gửi vũ khí cần thiết tới. Langley lượng định ông Thiệu có thể sẽ mất Đà Nẵng, có thể cả Tây Ninh và muốn biết ông Thiệu định giữ trận tuyến ở đường ranh nào. Trả lời trong ngày, Polgar nói tình hình bi đát hơn người ta có thể tiên đoán 10 ngày trước. Nhưng các TP Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết có thể giữ làm nơi gom quân và bảo vệ tiềm năng quân đội cho một trận đánh quyết liệt sắp tới. Thiệu chưa có ý định lập một phòng tuyến nào ngoài nỗ lực cứu vãn những gì có thể cứu vãn được.

Ngày 25-3, Langley định cho phép Polgar bắt đầu di tản những đối tượng cần di tản nhưng tỏ ý quan ngại phản ứng bất lợi trong dân chúng. Polgar cho biết sự lo ngại đó không cần thiết vì với thái độ bất hợp tác của Quốc hội Mỹ cộng thêm việc hàng ngàn nhân viên Việt - Mỹ hốt hoảng từ các tỉnh phía Bắc chạy xuống đã đủ gây kinh hãi cho dân chúng tại Sài Gòn. Về chiến lược, Polgar nhận thấy cả hai phía Mỹ và Nam Việt Nam đều lúng túng, thiếu đường lối chỉ đạo. Ông đề nghị tướng Fred C. Weyend, nguyên Tư lệnh MACV nên đến Sài Gòn tìm hiểu tình hình. Washington chấp thuận đề nghị của Polgar và phái đoàn gồm tướng Weyand, Shackley, George Carver và Martin lên đường ngày 27-3.

Ngày 26-3, Polgar báo cáo rằng tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội VNCH “như chúng ta từng biết” không còn nữa sau vụ rút khỏi cao nguyên và Hà Nội có thể kết thúc sự tồn tại của VNCH một cách nhanh chóng nếu họ muốn, ngoại trừ có áp lực quân sự và chính trị đối với Hà Nội, chẳng hạn như Mỹ lợi dụng miền Bắc đang bỏ trống và vận động Nga khuyên Hà Nội đừng hấp tấp. Chiều 26-3, Mỹ rút khỏi Tây Ninh bằng trực thăng.

Hỗn loạn Đà Nẵng

Tại Sài Gòn, Thiệu ra lệnh cho Quang và Bình tìm mọi cách chặn đứng các tiếng nói phản chiến của bà Ngô Bá Thành và các linh mục Công giáo. Ngày 28-3, sau những cảnh hỗn loạn tại sân bay Đà Nẵng hôm 27-3, Shackley báo cáo cho Colby biết kế hoạch giữ Đà Nẵng không thể thực hiện được. Ngày 27-3, sân bay Đà Nẵng mất an ninh vì quân lính và dân chúng chen chúc nhau giành chỗ và chuyến bay thứ nhất của Mỹ chỉ chở được 1/3 số người trong danh sách do Mỹ thiết lập. Chuyến bay thứ hai phải lén đậu một chỗ khuất trên đường băng mới lấy được đủ số người trong danh sách. Riêng nhân viên tình báo Mỹ an toàn rời Đà Nẵng trong ngày bằng phương tiện chuyên chở riêng của CIA.

Polgar thúc giục Quang cho Thiệu biết nếu không tái lập được an ninh tại sân bay thì Mỹ sẽ hủy bỏ nỗ lực di tản người Mỹ và người Việt bằng máy bay. Hình như Tổng thống Thiệu không được báo cáo chính xác về tình hình hỗn loạn tại sân bay Đà Nẵng.

Được lệnh của Thiệu nhưng tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 2, cũng bó tay không tái lập được trật tự tại sân bay. Ngày 28-3, Lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng Albert Francis ra lệnh chấm dứt chương trình di tản bằng máy bay và chuyển sang dùng đường biển.

Rạng sáng 28-3, lợi dụng trời còn tối, Mỹ cho một chiếc phà cập bến sông Đà Nẵng để di tản 3.000 người Việt làm việc với Mỹ. Tin bị lộ, khoảng 1.000 người không có trong danh sách tràn lên phà, chen lấn xô đẩy nhau, ngã xuống sông và nhiều người chết đuối. Phà được kéo ra, một số đông trong danh sách 3.000 người của Mỹ còn lại trên bờ. Đêm hôm sau, Tòa lãnh sự lại cho nhiều phà cập bến nhưng chỉ có một số vào được…

Tổng kết lại, Tòa Lãnh sự Mỹ và CIA phối hợp nhau đã di tản được khoảng 50.000 người ra khỏi Đà Nẵng nhưng nhiều người Việt trong số từ 3.000 đến 4.000 người làm việc với Mỹ và thân nhân của họ vẫn còn kẹt lại.

Ngày 27-3, trên chiếc máy bay chở phái đoàn tướng Weyand đi Việt Nam, Shackley tóm tắt cho Đại sứ Martin biết tình hình hỗn loạn tại sân bay Đà Nẵng, Martin có vẻ không tin. Đến Sài Gòn, và sau khi Đà Nẵng đã rơi vào tay Cộng sản, Polgar đưa Vince Daly, một nhân viên CIA của trạm Đà Nẵng đến gặp để tường trình trực tiếp cho Martin, Martin vẫn chưa tin và nói có thể ông sẽ đi Đà Nẵng để đích thân quan sát tình hình. Polgar hỏi máy bay ông đại sứ làm sao có thể đáp xuống một sân bay do Cộng sản kiểm soát? Hoạt cảnh này có lẽ do Đại sứ Martin bắt đầu đóng để bảo đảm một cuộc rút chạy an toàn cho đến ngày 30-4-1975! Theo chính sách của Đại sứ Martin, Polgar bắt đầu đưa ra những tin tức lạc quan.

Đà Nẵng thất thủ trong hỗn loạn như một gáo nước lạnh dội suốt miền Nam. Tổng thống Thiệu cũng mất bình tĩnh. Ngày 30-3, không một viên chức có tầm cỡ nào ứng trực tại dinh tổng thống. Ngày 2-4, Shackley và Polgar gặp Tổng thống Thiệu và thấy ông không kiềm chế được xúc động phải bật khóc. Shackley ghi nhận việc Vùng 1 và Vùng 2 mất đã làm cho tinh thần binh sĩ và dân chúng miền Nam hoàn toàn suy sụp. Dân cũng như quân miền Nam đều cho rằng Mỹ phản bội và đồng ý với nhau một điều là miền Nam chỉ có thể tồn tại nếu Mỹ dùng B-52 dội bom vào các đoàn quân Bắc Việt đang tiến về Sài Gòn.

Kỳ 11: Đầu hàng và tháo chạy

TRẦN BÌNH NAM (P.Tr. lược trích và giới thiệu)

CIA và các tướng lĩnh Sài Gòn

- Kỳ 1: Vai trò của CIA trong cuộc chiến Việt Nam

- Kỳ 2: CIA sau đảo chính ông Diệm

- Kỳ 3: “Ngôi sao” Thiệu - Kỳ xuất hiện 

- Kỳ 4: Xáo trộn và chia rẽ

- Kỳ 5: Mỹ tìm đường rút lui

- Kỳ 6: Nỗ lực chính trị hóa cuộc chiến Việt Nam

- Kỳ 7: Phản chiến lan rộng, Mỹ bối rối

- Kỳ 8: Hòa bình đã trong tầm tay

- Kỳ 9: Tiên đoán về một cuộc tấn công định mệnh

Tin cùng chuyên mục