Thông qua các hoạt động tập trận, huấn luyện quân sự tại châu Phi, Mỹ và các đồng minh chủ chốt trong Liên minh Hiệp ước Bắc Đại Tây dương (NATO) đang phát triển các lực lượng đồng minh ở khu vực để thực hiện mục tiêu thống trị lục địa đông dân thứ hai thế giới này. Các lực lượng này sẽ thực hiện nhiệm vụ can thiệp vũ trang, lật đổ các chính phủ chống lại lợi ích của phương Tây.
Từ các cuộc tập trận
Theo tạp chí Á - Âu chuyên nghiên cứu về quan hệ giữa các nước châu Á và châu Âu số ra ngày 2-7, mặc dù cuộc tập trận thường niên mang tên “Flintlock” do Mỹ chỉ huy ở châu Phi năm nay đã bị hủy bỏ do bất ổn của nước chủ nhà Mali nhưng các cuộc tập trận kiểu này trong suốt 7 năm qua đã đóng vai trò quan trọng trong chiến lược định hướng các lực lượng quân sự ở khu vực Tây Sahara theo quỹ đạo của Mỹ và NATO.
Năm 2006, NATO đã tổ chức một cuộc tập trận quy mô lớn kéo dài 2 tuần ở đảo quốc Cape Verde, Tây Phi. Cuộc tập trận mang tên Steadfast Jaguar là cuộc tập trận đầu tiên phối hợp cả 3 binh chủng: Hải - lục - không quân và là cuộc thử nghiệm năng lực tác chiến đầu tiên của lực lượng tấn công quốc tế của NATO. Cuộc tập trận quy tụ đến 8.000 quân đến từ 25/26 quốc gia thành viên lúc đó, kể cả các lực lượng đặc nhiệm Mỹ; các khí tài quân sự bao gồm máy bay tiêm kích, trực thăng tấn công, tàu chiến… Mục tiêu của cuộc tập trận mà theo báo chí Mỹ miêu tả là nhằm “giúp NATO chuyển từ một tổ chức phòng thủ thụ động, chỉ biết quanh quẩn ở châu Âu, thành một tổ chức an ninh, quân sự toàn cầu”.
Tại cuộc tập trận đó, giới chức NATO đã phác họa vai trò quan trọng của NATO trong việc tuần tra kiểm soát khu vực hải phận phía Tây châu Phi để bảo vệ các tàu chở dầu qua lại khu vực này, đồng thời có thể bảo đảm an toàn cho các khu vực sản xuất, khai thác và kho dự trữ dầu hỏa trong vùng châu thổ Niger.
Đến năm 2008, Hải quân NATO bắt đầu tăng cường túc trực trong vùng biển ngoài khơi vùng Sừng châu Phi, trong vịnh Aden (Yemen) và trong biển Arập, với các chiến dịch mang tên Allied Provider (Tiếp ứng đồng minh), Allied Protector (Bảo vệ đồng minh) và từ năm 2009 thêm nhiều chiến dịch khác… Thời gian gần đây NATO đẩy mạnh hợp tác quân sự với Liên minh châu Phi (AU), trong đó phía AU giao cho AFRICOM và NATO cùng nhau phối hợp chỉ huy Lực lượng Dự bị châu Phi (ASF). Lực lượng này hiện đang triển khai hoạt động từ Đông Phi sang tận Tây Phi và có kế hoạch triển khai ở Bắc, Trung và Nam châu Phi. NATO cũng giúp AU triển khai hoạt động của lực lượng ASF - một lực lượng tác chiến có cơ chế hoạt động tương tự như Lực lượng Phản ứng nhanh của NATO.
Đến can thiệp thô bạo vào tình hình châu Phi
Từ khi NATO và Bộ Tư lệnh châu Âu của Mỹ (EUCOM) cùng chia sẻ vai trò chỉ huy và sau đó chuyển giao cho Bộ Tư lệnh châu Phi của Mỹ (AFRICOM) phụ trách các chiến dịch trên lãnh thổ châu Phi vào tháng 10-2008, mối quan hệ giữa Mỹ và NATO ở châu Phi là mối quan hệ giữa chỉ huy - thuộc cấp trong nỗ lực trở lại và thống trị “châu lục đen” của các cường quốc phương Tây.
Sau sự kiện nhà lãnh đạo Gaddafi của Libya bị lật đổ, người châu Phi còn nhận ra rằng bên cạnh AFRICOM, ASF cũng chỉ là bàn tay của NATO. Libya là một minh chứng của quyết tâm thể hiện sức mạnh quân sự của NATO bên ngoài biên giới của khối, một phần trong chiến lược xâm lấn châu Phi của NATO trong thế kỷ 21 này. Giới phân tích còn cho rằng, chiến dịch không kích Libya cũng được xem như một mặt trận thử nghiệm mới của AFRICOM ở châu Phi, một thử thách thực tế đầu tiên để sát hạch khả năng ứng phó tình huống của AFRICOM - một tổ chức còn non trẻ do Mỹ thành lập năm 2008. Mang tiếng là được lập ra để chống khủng bố nhưng thực tế Mỹ lập AFRICOM để củng cố vị thế của mình ở châu Phi. Vai trò dẫn đầu của AFRICOM trong các cuộc tấn công vào Libya vừa qua cho thấy hoạt động của AFRICOM và việc triển khai chiến lược châu Phi của NATO đã được phối hợp chặt chẽ và lồng ghép với nhau. Việc AFRICOM đi vào hoạt động chính là một bước mở rộng phạm vi tác chiến của NATO tại khu vực phía Đông và vùng Sừng châu Phi. Theo thống kê trên website của NATO, các máy bay chủ yếu của Anh, Pháp, Mỹ trong 2 tháng triển khai Chiến dịch Unified Protector (tính từ 31-3-2011) đã thực hiện 7.200 phi vụ và hơn 2.800 phi vụ tác chiến.
Cuộc khủng hoảng Libya khác với cuộc khủng hoảng ở các quốc gia châu Phi khác. Cuộc khủng hoảng này đánh dấu các vụ ném bom có quy mô lớn đầu tiên của NATO tại châu Phi. Đây cũng là hoạt động quân sự lớn đầu tiên do AFRICOM tiến hành ở châu Phi. Oái oăm thay, trong cuộc khủng hoảng với quy mô lớn này, AU chỉ đơn thuần là một “khán giả”, không hề có một vai trò quan trọng nào. Bởi trước đó, tổ chức này đã “bắt tay” với NATO, giao cho AFRICOM và NATO cùng nhau phối hợp chỉ huy ASF. Lực lượng này hiện đang triển khai hoạt động từ Đông Phi sang tận Tây Phi và có kế hoạch triển khai ở Bắc, Trung và Nam châu Phi.
Libya là một trong 4 quốc gia châu Phi bị NATO “dập” một phần vì đã từ chối, không chấp nhận làm đối tác của AFRICOM trong các chiến dịch tập trận quân sự trong khu vực (như Flintlock, Africa Endeavor, Natural Fire…) do quân đội Mỹ chỉ huy và các nước châu Phi tham gia tập trận chung. Ở châu Phi, chính quyền của Tổng thống Gaddafi được xem là chính quyền tiên phong trong cuộc chiến chống lại sự can thiệp kiểu thực dân của phương Tây. Đối với phương Tây, Gaddafi là một nhà độc tài và thực sự nguy hiểm đối với chiến lược xây dựng chế độ thuộc địa của họ.
Cũng không chịu làm đối tác trong các cuộc tập trận của NATO, Eritrea - một quốc gia nhỏ bé trong vùng Sừng châu Phi - cũng bị các tàu chiến của Hải quân NATO chặn bắt những chuyến tàu chở vũ khí nhằm thực thi lệnh cấm vận hàng hải đối với Eritrea.
Tạp chí Á - Âu khẳng định những sự kiện ở Libya, Bờ Biển Ngà cho thấy Mỹ, Pháp và các đồng minh NATO cố tình bóp méo ý nghĩa thực sự của nghị quyết LHQ. Sự hung hãn của quân đội và quyết tâm chính trị của các cường quốc trong khối NATO đã thể hiện sự ưu tiên cao độ cho một chiến lược thực dân kiểu mới của phương Tây ở châu lục này.
Hạnh Chi (tổng hợp)