Công bộc hay đầy tớ của dân là cụm từ chỉ trách nhiệm và nghĩa vụ của người lãnh đạo, mở rộng ra là của cán bộ công chức nhà nước. Theo từ điển Hán Việt, công có nghĩa của chung, bộc có nghĩa đầy tớ. Cụm từ “công bộc của dân” nghĩa là “người đầy tớ chung của dân”. Theo từ điển mở Wikipedia, trên thế giới, khái niệm viên chức nhà nước là công bộc của dân (hay còn gọi là nô lệ) đã có từ rất lâu trong quan niệm của người Mỹ và đạo Hồi, bắt nguồn từ nền dân chủ đầu tiên tại Hy Lạp thời cổ đại.
Ở nước ta trước Cách mạng Tháng 8-1945, khái niệm “viên chức nhà nước” đồng nghĩa với “quan chức”, tầng lớp được coi là “dưới vua nhưng trên dân thường”, “quan là cha mẹ của dân” (quan phụ mẫu), gắn liền với hình ảnh tiêu cực: “Con ơi nhớ lấy câu này/Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Cho đến khi nước Việt Nam mới - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - ra đời, trong thư gửi “UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng” đăng trên Báo Cứu Quốc ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Từ đây, “công bộc của dân” trở thành quan niệm mới tại Việt Nam, “cán bộ công chức” luôn được xem là “công bộc của dân”, gắn liền với công cuộc cách mạng, với mục tiêu mà Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam mới quyết tâm thực hiện: xây dựng một đất nước “của dân, do dân và vì dân”.
Nhưng nhìn vào thực tế cho đến nay, một bộ phận trong đội ngũ cán bộ công chức chưa được như vậy. Ở hầu hết cơ quan công quyền, đặc biệt những nơi liên quan trực tiếp đến quyền lợi người dân, chúng ta đều dễ dàng bắt gặp đây đó thái độ, cung cách làm việc quan liêu, cửa quyền, hách dịch, xa rời dân; làm thì ít, chơi thì nhiều - dù không phải là tất cả. Đáng nói hơn - như Đảng đã thẳng thắn nhìn nhận - từ thói quan liêu, cửa quyền, xa rời dân, được tiếp sức bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường trong lúc chế độ lương bổng của nhà nước chậm được cải thiện, đã khiến một bộ phận không nhỏ “đầy tớ của dân” bị tha hóa, biến chất, ngày càng sa vào tiêu cực, tham nhũng, suy thoái về đạo đức, lối sống, trở thành nguy cơ lớn cho sự tồn vong của đảng cầm quyền.
Không phải đến bây giờ, từ cả chục năm trước, nhận thức về những nguy cơ một mất một còn kể trên, Đảng, Chính phủ đã quyết tâm đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, trong đó đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch vững mạnh, thực sự là công bộc của nhân dân. Thế nhưng vì sao chúng ta đã có nhiều nỗ lực, đến nay kết quả vẫn không như mong muốn?
Nhìn vào kinh nghiệm của các nước cải cách hành chính thành công, người ta đều thấy có 3 yếu tố quan trọng: Ý chí của giai cấp cầm quyền, sự ủng hộ của người dân và quyết tâm của đội ngũ cán bộ công chức. Hầu hết các nước đều gặp khó khăn ở chính đội ngũ thực thi công vụ này.
Trong những năm gần đây, cùng với một số địa phương, TPHCM xác định cải cách hành chính là 1 trong 6 chương trình đột phá để phát triển, đặc biệt trong giai đoạn 2011 - 2016. Mới đây, UBND quận 1 TPHCM đã tiên phong áp dụng thiết bị hiện đại giúp người dân đánh giá mức độ hài lòng đối với cán bộ công chức của quận.
Có thể nói, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức chính là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Điều đó cũng có nghĩa, đội ngũ cán bộ công chức có trong sạch vững mạnh thì Đảng mới thật sự trong sạch vững mạnh. Hơn lúc nào hết, việc xây dựng và áp dụng “chỉ số tín nhiệm” đối với cán bộ công chức cần phải được đẩy mạnh, hoàn thiện và áp dụng triệt để ở mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương và với mọi cán bộ công chức một cách quyết liệt cùng với việc cải tiến đồng bộ các hành lang pháp lý, chế độ chính sách nhằm chế tài nghiêm khắc vi phạm cũng như tạo điều kiện tốt nhất cho cán bộ công chức “vì dân phục vụ”, thực sự hiểu được ý nghĩa cao đẹp và luôn làm tròn bổn phận “công bộc của dân”.
Phạm Phương Đông