Bài 1: Hành động
LTS: Năm nay vừa tròn 50 năm ngày quân đội Mỹ lần đầu tiên rải chất độc da cam (CĐDC) xuống Việt Nam. Hàng triệu người Việt Nam bị ảnh hưởng bởi loại thuốc diệt cỏ chết người này đang ngày đêm vật lộn với bệnh tật và đau đớn hơn khi công lý cho họ vẫn chưa được thực thi. Trong khi cộng đồng quốc tế, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu luật luôn luôn ủng hộ cuộc đấu tranh giành công lý cho các nạn nhân da cam thì những người chủ mưu, những kẻ sản xuất loại chất độc này vẫn tiếp tục chối bỏ trách nhiệm và tội ác của mình. Báo Sài Gòn Giải Phóng vừa nhận được bài viết của ông Len Aldis, Tổng thư ký Hội Hữu nghị Anh - Việt kêu gọi phải hành động mạnh mẽ hơn nữa để giành công lý cho nạn nhân CĐDC ở Việt Nam. |
Ngày 10-8-1961, ngày bắt đầu một sự kiện kéo dài đến 10 năm, rồi sau đó để lại một tấn thảm kịch chưa có hồi kết. 50 năm trôi qua, người dân Việt Nam và đông đảo bạn bè trên khắp thế giới không thể nào quên và đang hướng sự chú ý về lễ tưởng niệm sự kiện đặc biệt này.
Ngày định mệnh và những hậu quả kinh hoàng
Vào cái ngày định mệnh đó, khi những chiếc máy bay đầu tiên cất cánh từ các căn cứ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam chất đầy CĐDC, và bắt đầu rải thứ chất độc giết người xuống các cánh rừng, không một ai trong số các phi công biết rằng họ đang thực hiện một nhiệm vụ sẽ dẫn đến cái chết của hàng ngàn bào thai vô tội. Hàng ngàn trẻ em vô tội khác cũng từ giã cõi đời chỉ vài tuần hoặc vài năm sau khi sinh ra. Quyền con người, một đặc quyền mà các em không được tận hưởng suốt thời niên thiếu.
Việc sử dụng CĐDC/dioxin đã để lại những hậu quả nặng nề trong nhiều năm. Những cánh rừng bạt ngàn bị tàn phá. Môi trường sống các loài động vật cũng bị tiêu diệt. Những người dân sống xung quanh khu vực Mỹ rải hóa chất vô tình trở thành nạn nhân của chất hóa học giết người. Khi việc rải CĐDC tiếp tục diễn ra trong 10 năm tiếp theo, những mảnh đất bị nhiễm độc đã “lây” độc cho các loại cây lương thực. Sông ngòi cũng không thoát khỏi thảm cảnh tương tự.
Nhưng đó chỉ là sự khởi đầu cho một sự thật kinh hoàng: những trẻ em sinh ra với di tật trên cơ thể, vẫn sống nhưng ốm đau triền miên, dị dạng và rồi chết yểu. Lần đầu sang Việt Nam vào tháng 3-1989, tôi đã thăm làng Hòa Bình thuộc Bệnh viện Từ Dũ, nơi cất giữ hàng trăm bào thai chết trong bụng mẹ qua đời sau khi sinh ra ít lâu. Tôi cũng gặp những đứa trẻ tật nguyền hồ hởi khi có khách đến thăm. Những hình ảnh đó luôn hằn sâu trong tâm trí tôi. Được gặp gỡ các em là hạnh phúc của đời tôi. Được ôm các em trong vòng tay là khoảnh khắc thật quý giá.
Mặc dù CĐDC được rải ở miền Nam Việt Nam nhưng tác hại của nó hiện diện ở mọi miền của dải đất hình chữ S. Những người phơi nhiễm CĐDC trở về nhà cưới vợ, sinh con và vô tình chuyển thứ chất độc giết người sang con cái của họ. Ở một vùng quê miền Bắc, tôi đã gặp 3 thế hệ của một gia đình. Người cha tham gia chiến đấu trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, sinh ra một người con trai bị dị tật ở chân. Đến lượt người con trai lấy vợ, lại sinh ra một cậu bé không có chân. Tất cả đều do CĐDC. Có rất nhiều những gia đình như thế ở Việt Nam và con số này vẫn không ngừng tăng lên.
Những nạn nhân đủ mọi lứa tuổi luôn cần sự giúp đỡ và hỗ trợ. Không một ai được thấy, được tiếp xúc, trò chuyện với các nạn nhân khi ra về có thể quên được họ. Tuy nhiên, nỗi đau không chỉ dành riêng cho các nạn nhân. Chúng ta không thể và không được phép quên những người cha, người mẹ, những người đã phải dành cả cuộc đời để chăm lo cho những đứa con của họ. Thời kỳ chiến tranh, sân bay Biên Hòa, Đồng Nai là nơi tập kết các máy bay Mỹ chở CĐDC cất cánh. Hàng ngàn người dân ở đây đã bị phơi nhiễm CĐDC, trong khi khu vực xung quanh sân bay đến nay vẫn nhiễm CĐDC nặng nề.
Tôi đã gặp một gia đình gồm một người mẹ và 2 cô con gái phải hứng chịu nỗi đau da cam ở Đồng Nai. Những cô gái này không thể đi lại, ăn uống nếu không có sự giúp đỡ của người mẹ. Và chắc chắn sẽ có câu hỏi các cô ấy bao nhiêu tuổi rồi? Xin thưa: một cô 42 tuổi và người còn lại tuổi 36. Hãy thử hình dung một người mẹ đã phải trông nom các con của mình trong suốt 42 năm không ngơi nghỉ! Những trường hợp như vậy không hề hiếm ở Việt Nam khi số người nhiễm CĐDC lên đến hàng triệu.
Chờ câu trả lời trách nhiệm
Ở các vùng khác nhau tại Việt Nam, tôi bắt gặp rất nhiều hình ảnh những người cha, người mẹ có con phơi nhiễm CĐDC. Cuộc sống của họ vô cùng cơ cực. Đã rất nhiều lần những người cha, người mẹ và thậm chí cả những người ông, người bà có con cháu bị nhiễm CĐDC hỏi tôi rằng: “Bọn nhỏ sẽ ra sao khi chúng tôi không còn ở trên đời?”.
Tôi không biết trả lời sao cả. Tôi đã chuyển câu hỏi này cho rất nhiều đời các tổng thống Mỹ, từ ông Bill Clinton cho đến ông Barack Obama. Không một ai trong số họ hồi âm. Tôi cũng đã gửi thư cho những người đứng đầu của một số công ty trong tổng số 37 công ty hóa chất Mỹ là Monsanto hay Dow Chemical. Hồi đáp của họ rất rõ ràng. Họ từ chối trách nhiệm và xin lỗi vì phải làm theo lệnh Chính phủ Mỹ. Kiểu xin lỗi này không khác gì Đức quốc xã đã từng dùng trong thế chiến thứ hai và bị các thẩm phán của phiên tòa Nuremberg bác bỏ thẳng thừng.
Trong một lần ở Hà Nội, tôi hỏi một đại sứ Mỹ về CĐDC, về những hậu quả gây ra cho người Việt Nam và cả những người Mỹ phơi nhiễm CĐDC. Nhưng câu trả lời của ông đại sứ mới đáng ngạc nhiên: “Không, đó không phải do CĐDC. Những người lính của chúng tôi bị thương khi chiến đấu và chúng tôi phải có nghĩa vụ chăm sóc họ”.
Mấy năm trước, tôi được biết cả Monsanto và Dow Chemical đều có văn phòng tại TPHCM. Tôi đã gửi một lá thư đến giám đốc văn phòng đại diện Monsanto tại TP đề nghị một cuộc gặp và để cùng ông ta đến thăm làng Hòa Bình. Ông ta cho biết không thể có mặt tại TP vào thời điểm tôi đến. Lần đến thăm Dow Chemical vài năm sau cũng có một kết quả tương tự. Tôi được một trong những người thư ký tiếp đón và từ chối không trả lời bất kỳ thông tin nào.
Trong 50 năm qua, rất nhiều hoạt động ủng hộ các nạn nhân CĐDC Việt Nam đã diễn ra, trong đó có vụ kiện mà Tòa án tối cao Mỹ bác bỏ. Các hội thảo công khai nơi những nạn nhân CĐDC Việt Nam được nói lên suy nghĩ của mình. Các đơn thỉnh nguyện bằng văn bản hay trên mạng với hàng triệu người ủng hộ. CĐDC tại Việt Nam cũng được đưa ra bàn thảo tại Quốc hội Mỹ, trong khi các buổi hòa nhạc và nhiều hoạt động ủng hộ khác vẫn tiếp tục được thực hiện cho đến hôm nay.
Nhưng thật buồn khi công cuộc đòi công lý cho các nạn nhân CĐDC Việt Nam chưa đạt được nhiều bước tiến. Từ chính quyền Tổng thống Nixon đến Obama và các công ty hóa chất Mỹ đều phủ nhận trách nhiệm và không chấp nhận bồi thường cho các nạn nhân CĐDC cùng gia đình của họ. Hàng loạt các tuyên bố ủng hộ nạn nhân CĐDC Việt Nam đã được các đại biểu dân cử Mỹ đưa ra. Tuy nhiên, chúng không có thực chất. Lúc nào họ cũng nói đến nhân quyền nhưng lại cố tình làm ngơ quyền con người, quyền của những đứa trẻ lẽ ra phải được hưởng.
Nhóm đối thoại Việt - Mỹ (DG) đã được thành lập vài năm trước đây với mục đích đi tìm câu trả lời cho vấn đề CĐDC, những ảnh hưởng của nó đối với con người và môi trường ở Việt Nam. Sau nhiều năm đối thoại, một kế hoạch trị giá 300 triệu USD (trong 10 năm) để giải quyết vấn đề da cam Việt Nam đã được đưa ra. Tuy nhiên, kế hoạch này khiến tôi rất băn khoăn. Thứ nhất, 30 triệu USD/năm là không đủ, thậm chí chỉ dành riêng cho việc làm sạch các điểm nóng dioxin tại Việt Nam.
Một báo cáo của DG cho biết các thùng hóa chất dioxin đã được thu gom, ngoại trừ những thùng đã bị rò rỉ và chôn vùi. Vậy số lượng rò rỉ là bao nhiêu và đã chôn những thùng hóa chất đó ở đâu? Những thùng hóa chất đó như quả bom hẹn giờ chờ phát nổ. Họ cần phải tìm cho ra và xử lý chúng, đất đai cần phải được tẩy độc.
30 triệu USD/năm cũng quá ít ỏi để chữa trị cho hàng triệu người dân Việt Nam chịu ảnh hưởng của CĐDC. Rồi những bù đắp cho thân nhân của các nạn nhân khi họ phải hy sinh tất cả thời gian để chăm sóc người thân của mình, không thể làm việc gì khác để tăng thêm thu nhập cũng như cống hiến cho cộng đồng. Tôi cần phải nhắc lại số tiền 30 triệu USD/năm là không đủ khi con số người nhiễm CĐDC lên tới hàng triệu người.
Tôi xin chuyển sang một khía cạnh khác, điều tôi cho rằng khá nhạy cảm. Bắt đầu từ năm 1989, năm nào tôi cũng sang Việt Nam. Những năm tháng đó mang đến cho tôi rất nhiều những người bạn ở nhiều cấp khác nhau. Tôi hy vọng rằng, những người bạn đó chấp nhận và hiểu rằng những điều tôi viết ra đây đều vì mối quan hệ bạn bè đã xây dựng trong thời gian đã qua.
Theo tôi, cần phải có một cách nghĩ mới nếu chúng ta thật sự muốn tìm kiếm công lý cho các nạn nhân CĐDC Việt Nam. Tôi xin gợi ý rằng chúng ta cần tổ chức một hội thảo quốc tế để thảo luận những gì cần làm để mang công lý về cho các nạn nhân của Việt Nam. Tôi cũng xin đề xuất rằng cần phải kêu gọi một lệnh cấm quốc tế đối với tất cả các sản phẩm của Monsanto.
Nhân dịp 50 năm đánh dấu ngày CĐDC lần đầu tiên rải xuống Việt Nam, chúng ta hãy cùng tưởng nhớ về hàng trăm ngàn người đã chết vì CĐDC. Hãy nhớ đến hàng triệu người còn đang ở lại với chúng ta, những người mà chúng ta đang đi đòi công lý cho họ. Hãy ghi nhớ về những đứa trẻ chưa được sinh ra và những người sẽ tiếp tục gánh chịu những hậu quả của CĐDC.
Thưa các bạn, thời gian đối thoại đã hết và đây là lúc phải hành động với quy mô trên toàn thế giới.
Tôi đã từng nói tôi rất không hài lòng khi thấy tại TPHCM xuất hiện các văn phòng đại diện của Monsanto và Dow Chemical. Bất kỳ ai đấu tranh vì công lý cho các nạn nhân CĐDC đều biết rằng những công ty này đã sản xuất ra thứ hóa học giết người sử dụng ở Việt Nam. Monsanto thu về hàng tỷ USD từ việc sản xuất CĐDC và còn hàng tỷ USD khác từ việc sản xuất hạt giống các loại cây trồng được tiêu thụ ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Thật không thể nào tin được những công ty đầu độc đất đai Việt Nam, phá hủy các cánh rừng, làm hàng triệu người dân Việt Nam phải sống trong nỗi đau... lại có các văn phòng tại Việt Nam. Rất nhiều quốc gia trên thế giới đã cấm nhập khẩu các sản phẩm hạt giống của Monsanto. Điều này cho thấy sự thừa nhận của quốc tế đối với các sản phẩm hạt giống của Monsanto không tốt cho nông dân hay người tiêu dùng, không làm tăng sản lượng cho vụ mùa. Tại Ấn Độ, hàng ngàn nông dân đã bị dồn vào bước đường cùng khi bị ép phải mua hạt giống của Monsanto, rồi phải sống trong nợ nần chồng chất. |
Len Aldis
(Tổng thư ký Hội Hữu nghị Anh - Việt)
Bài 2: Tàn phá môi trường và con người
Sau khi đăng bài viết của Tổng thư ký Hội hữu nghị Anh-Việt Len Aldis, chúng tôi nhận được bài viết của bà Merle E.Ratner, điều phối viên Chiến dịch hỗ trợ và công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. Bài viết nói về hai công ty Monsanto và Dow Chemical không chỉ sản xuất chất độc da cam mà còn sản xuất nhiều hóa chất độc hại khác gây hại cho sức khỏe con người và môi trường nhưng núp dưới danh nghĩa phục vụ “yếu tố con người” và “đảm bảo nông nghiệp bền vững”.
- Tội ác mang tên da cam và bom napalm
Dow Chemical và Monsanto là 2 công ty của Mỹ có truyền thống tạo lợi nhuận từ sức khỏe, sự an toàn và sinh mệnh của con người trên thế giới. Cả 2 công ty đa quốc gia này làm giàu một phần nhờ sản xuất vũ khí hóa học chất độc da cam (CĐDC). Từ năm 1961-1971, hơn 10% vùng đất ở miền Nam Việt Nam bị rải CĐDC. Hơn 3 triệu người dân Việt Nam bị giết, đau ốm hoặc tật nguyền bởi chất hóa học ghê rợn này. Giờ đây, những thế hệ thứ 2, thứ 3 của những người ông, người cha bị phơi nhiễm CĐDC cũng đang phải gánh chịu hậu quả.
Việt Nam là mục tiêu chính của vũ khí hóa học. Tuy nhiên, người d
ân ở Lào, Campuchia và những cựu binh người Mỹ, Hàn Quốc, Australia và New Zealand - những người đứng cùng phe với Mỹ trong cuộc chiến tại Việt Nam - cũng bị ảnh hưởng. CĐDC làm đất đai ở Việt Nam, Lào, Campuchia và những nơi lưu chứa, thử nghiệm và sản xuất loại chất hóa học độc hại này đều bị nhiễm độc. 28 điểm nóng dioxin tại Việt Nam tiếp tục làm người dân ở những khu vực này bị ảnh hưởng sau khi ăn lương thực, thực phẩm nhiễm độc. Báo chí gần đây còn cho biết Mỹ đã chôn CĐDC và nhiều loại hóa chất độc hại khác tại Hàn Quốc, làm người dân sở tại bất bình. Các cuộc điều tra cũng đã được mở lại.
Việc dùng CĐDC chỉ để phát quang rừng thì sẽ không có chất dioxin ở mức độ cao. Trớ trêu thay, dioxin ở mức độ cao xuất hiện là do quá trình sản xuất CĐDC vội vàng để mang về thật nhiều lợi nhuận (và cung cấp chất hóa học cho cỗ máy chiến tranh Mỹ).
Dow không chỉ sản xuất CĐDC mà còn sản xuất cả bom napalm, một loại vũ khí hóa học được sản xuất để giết người theo cách tàn bạo nhất - đốt cháy da thịt. Những người bị bom napalm đốt cháy không thể dùng nước để dập lửa. Mỹ đã sử dụng bom napalm trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trong khi các nhà sản xuất khác bị người dân Mỹ phản đối và buộc phải ngừng sản xuất, chỉ có duy nhất Dow tiếp tục sản xuất loại bom này đến năm 1969.
- Nhiều hóa chất giết người khác
Dow đã từng mua lại Union Carbide, công ty phải chịu trách nhiệm về thảm họa Bhopal. Ngày 3-12-1984, chất hóa học methyl isocyanate bị rò rỉ tại một nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu thuộc sở hữu Công ty Union Carbide ở Ấn Độ. Chiến dịch quốc tế vì công lý cho biết, 25.000 người đã chết, hơn 100.000 người bị mắc bệnh, tàn tật vì loại khí độc Bhopal. Các nạn nhân mắc chứng khó thở, thị lực bị tổn thương, biến chứng về sinh sản, tỷ lệ ung thư tăng và nhiều loại bệnh tật khác ảnh hưởng đến các bộ phận trên cơ thể con người. Một nghiên cứu năm 2003 đăng trên Báo Hiệp hội y khoa Mỹ (JAMA) xác nhận, độc tố từ những ông bố, bà mẹ bị phơi nhiễm đã truyền lại cho các con của họ.
Dow còn sản xuất nhiều loại hóa chất cực độc khác có trong các loại thuốc trừ sâu dùng cho việc làm vườn. Theo Wikipedia, Dow đưa ra thị trường thuốc trừ sâu có tên Dursban, trong đó có chất hóa học chlorpyrifos. Đến tận năm 2010, đây vẫn là một trong những loại thuốc trừ sâu được sử dụng rộng rãi trong các gia đình ở Mỹ. Các loại thuốc trừ sâu luôn bị nghi là nhân tố phá hoại nội tiết tố và gây ung thư. Mạng lưới tác động của thuốc trừ sâu, một tổ chức luôn đấu tranh để loại bỏ các loại chất độc hại, ước tính Dow đã “góp phần” làm 80% người dân bị phơi nhiễm chlorpyrifos (dựa trên thị phần của Dow vào năm 2004).
Đất và nguồn nước của các khu vực xung quanh trụ sở của Dow ở Midland, Michigan bị ô nhiễm nặng nề. Những vùng đất chạy dọc Tittabawassee - con sông chảy qua khuôn viên nhà máy sản xuất chính của Dow tại Midland đã bị nhiễm dioxin ở mức cao có thể gây ung thư. Vụ việc được phát hiện vào tháng 11-2006. Tháng 6-2007, sau nhiều năm bị người dân Midland phản đối, Dow đã thỏa thuận với Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) di dời 38.000m3 chất lắng đọng độc hại ở 3 khu vực, những nơi bị phát hiện có hóa chất độc hại. Tháng 11-2008, Dow cùng EPA và cơ quan chất lượng môi trường Michigan thống nhất thiết lập “siêu” quỹ để tẩy rửa dioxin tại sông Tittabawassee, sông Saginaw và vịnh Saginaw.
- Che mắt dư luận
Còn với Monsanto, ngoài việc sản xuất CĐDC, công ty này còn sản xuất các sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp như thuốc trừ sâu và các sản phẩm hạt giống biến đổi gen. Rất nhiều nhà khoa học tin rằng, thuốc trừ sâu của Monsanto và hạt giống biến đổi gen gây hại cho sức khỏe con người. Người tiêu dùng tại Mỹ, châu Âu và nhiều khu vực khác cảm thấy bất an khi mua và sử dụng thực phẩm từ công nghệ biến đổi gen.
|
Theo Wikipedia, Monsanto đã gây tranh cãi ở Mỹ khi giới thiệu sản phẩm hormone tăng trưởng bovin somatotropin, viết tắt rBST hay rBGH. Đây là loại hormone tăng trưởng dùng tiêm vào bò để kích thích hormone IGF-1 có chức năng làm tăng sản lượng sữa. Mặc dù IGF-1 có tự nhiên trong sữa mẹ dùng cho trẻ sơ sinh, nhưng một số nhà khoa học cho rằng nó ảnh hưởng tiêu cực với những người trưởng thành khi đẩy nhanh quá trình ung thư. Hormone này có liên quan đến bệnh ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư phổi và ruột kết.
Năm 2002, tờ Washington Post đã cho đăng tải trên trang nhất về “di sản” ô nhiễm môi trường của Monsanto tại Anniston, Alabama liên quan đến sản phẩm polychlorinated biphenyls (PCB), một hóa chất được sử dụng làm chất cách điện 40 năm trước. Tờ New York Times cho biết, chỉ riêng trong năm 1969, Monsanto đã đổ 45 tấn PCB xuống lạch Snow, một nhánh của sông Choccolocco, nơi cung cấp nước sinh hoạt cho cả vùng. Công ty này cũng cho chôn hàng chục tấn PCB tại các bãi rác lộ thiên nằm ở các sườn đồi phía trên và xung quanh khu vực nhà máy. Tháng 8-2003, Solutia và Monsanto đồng ý trả 700 triệu USD để giải quyết khiếu nại của 20.000 người dân ở Anniston liên quan đến ô nhiễm PCB.
Dow và Monsanto nằm trong nhóm các công ty hóa chất có doanh thu hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, họ không bao giờ chịu bồi thường cho các nạn nhân trừ khi họ bị buộc phải làm vậy. Tại Mỹ, sau khi chịu sức ép dư luận trong nhiều năm, những công ty này mới làm sạch một vài đống chất thải độc hại của họ. Rất nhiều cộng đồng dân cư khác vẫn tiếp tục đấu tranh để đòi công lý. Đối với các nạn nhân CĐDC Việt Nam (và cả bom napalm của Dow), họ vẫn chưa đòi được công lý từ những công ty có siêu lợi nhuận từ những việc làm khủng khiếp trên. Những công ty này vẫn không chịu bỏ một đồng nào để bồi thường cho các nạn nhân ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác. Việc bồi thường chút đỉnh cho các cựu quân nhân Mỹ phơi nhiễm CĐDC chỉ làm che mắt dư luận chứ thực chất không giúp được gì trong việc giảm nhẹ nỗi đau cho họ.
Merle E.Ratner
(Điều phối viên Chiến dịch hỗ trợ và công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam)
Bài 3: Lảng tránh trách nhiệm
Sau khi nhận được bài viết của Tổng thư ký Hội Hữu nghị Anh-Việt Len Aldis, chúng tôi đã liên lạc với văn phòng đại diện của 2 công ty Monsanto Thái Lan và Dow Chemical tại TPHCM đề nghị được trao đổi trực tiếp với trưởng văn phòng đại diện 2 công ty một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm của 2 công ty này. Nhưng như ông Len Aldis, chúng tôi cũng gặp lý do “các trưởng đại diện đi công tác nước ngoài”.
Hồi đáp của Dow Chemical 2011
Trong lần liên lạc đầu tiên vào ngày 17-5, lễ tân của cả 2 công ty đều cho biết trưởng văn phòng của họ đã đi công tác nước ngoài, đầu tuần sau sẽ có mặt tại Việt Nam. Theo những nhân viên này, mọi thắc mắc có thể gửi bằng fax hoặc thư tay đến công ty; nhân viên sẽ có trách nhiệm gửi câu hỏi đến người có đủ thẩm quyền để trả lời.
Lý do các nhân viên của 2 công ty đưa ra khiến chúng tôi liên tưởng đến những tình huống ông Len Aldis đã trải qua khi đề nghị được gặp các trưởng văn phòng đại diện của 2 công ty trước đây.
Ông Len Aldis cho rằng, các lý do đó chỉ nhằm né tránh vấn đề CĐDC của các công ty trên. Tuy nhiên, chúng tôi đã làm đúng theo yêu cầu của cả 2 công ty, gửi fax đến từng công ty với nội dung: 2 công ty đã có những hoạt động nào nhằm hỗ trợ giảm nhẹ nỗi đau da cam tại Việt Nam sau khi Chính phủ Mỹ phần nào đã nhìn nhận về trách nhiệm của họ đối với nỗi đau da cam tại Việt Nam qua quỹ hỗ trợ tẩy chất độc trong đất đai và giúp đỡ các nạn nhân Việt Nam bị ảnh hưởng bởi CĐDC trị giá 300 triệu USD/10 năm.
Tuy nhiên, đến thời điểm cho xuất bản bài báo này, chúng tôi chỉ nhận được hồi đáp bằng văn bản của Dow Chemical với nội dung như sau:
“Quyết định của các chính phủ tham gia chiến tranh luôn luôn là lựa chọn sai lầm và đáng tiếc. Là một quốc gia trong thời chiến, Chính phủ Mỹ đã buộc một số công ty sản xuất chất da cam theo Đạo luật sản xuất quốc phòng (Defense Production Act). Chính phủ lúc đó đã chỉ định cách thức sản xuất hóa chất cũng như kiểm soát sử dụng chúng. Các vấn đề liên quan đến sử dụng chất da cam trong cuộc chiến tranh Việt Nam là vấn đề phải được giải quyết giữa hai chính phủ Việt Nam và Mỹ. Công ty Dow Chemical là một trong các công ty được Chính phủ Mỹ ủy quyền sản xuất chất da cam…”.
Trong một lá thư trao đổi với Tổng thư ký Len Aldis trước khi nhận được hồi đáp của Dow Chemical, ông Len Aldis nhận định: Các công ty sẽ không bao giờ thừa nhận trách nhiệm mà sẽ đổ trách nhiệm sang phía chính phủ. Đây cũng là điều ông Len Aldis đã nhận được từ thư trả lời của trưởng văn phòng đại diện Monsanto (được đăng trên báo SGGP ngày 6-11-2009).
Theo ông Len Aldis, các nhà sản xuất đã biết rõ chất độc dioxin sinh ra trong quá trình sản xuất chất da cam và cố tình ém nhẹm thông tin này. Vì vậy, những công ty như Monsanto hay Dow Chemical không thể chối bỏ trách nhiệm với những hậu quả mà CĐDC để lại đối với người dân Việt Nam.
Cách hành xử của 2 công ty sản xuất CĐDC lần này thật sự không khác gì phương thức họ đã áp dụng với ông Len Aldis. Theo ông Len Aldis, mỗi lần trước khi sang Việt Nam, ông luôn gửi e-mail đến trưởng đại diện văn phòng Monsanto tại Việt Nam đề nghị được gặp mặt, trao đổi về những vấn đề liên quan đến CĐDC tại Việt Nam. Đáp lại là những lời từ chối kiểu “rất vui được tiếp đón ông nhưng rất tiếc hiện tôi không có mặt tại Việt Nam”.
Tổng thư ký Hội Hữu nghị Anh-Việt cho rằng hành động chối bỏ trách nhiệm của Monsanto sau khi đã gây ra biết bao đau khổ cho hàng triệu người dân Việt Nam là không thể chấp nhận. Năm 2004, ông Len Aldis đã từng gửi một bức thư với nội dung lên án hành động tội ác của Monsanto cho chủ tịch của công ty này.
...và Monsanto 2009
Trong khi đó, năm 2009, trưởng văn phòng đại diện Mosanto cũng đã gửi thư trả lời ông Len Aldis về các vấn đề CĐDC. Khi đối chiếu 2 bức thư, chúng tôi nhận thấy nội dung trả lời của Monsanto và Dow Chemical không khác nhau mấy.
Thư trả lời của Monsanto cho biết: “Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã vận dụng điều khoản Đạo luật sản xuất quốc phòng (Defence Production Act), yêu cầu 7 công ty sản xuất CĐDC. Chính phủ đã chỉ đạo rõ việc sản xuất và kiểm soát chất hóa học đó như thế nào và sử dụng chất hóa học đó ra sao. CĐDC là hỗn hợp (tỷ lệ 50-50) hai loại chất diệt cỏ thông dụng 2,4-D và 2, 4, 5-T.
Điều các nhà khoa học và công chúng tại thời điểm diễn ra cuộc chiến tranh tại Việt Nam quan tâm là trong quá trình sản xuất một trong những loại thuốc diệt cỏ nói trên đã sản sinh ra chất dioxin độc hại nhất bao gồm 2, 3, 7, 8 TCDD (dạng dioxin độc hại nhất là dioxin 2, 3, 7, 8 - tetra-chlorodibenzo-p-dioxin, viết tắt là 2, 3, 7, 8-TCDD). Các bằng chứng thuyết phục về bệnh lý vẫn đang được kiểm tra tính chính xác.
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu đều không chỉ ra một cách rõ ràng sự liên quan giữa CĐDC và những bệnh tật mà các nhà khoa học đã tìm ra”. Một ủy ban của Viện Nghiên cứu dược phẩm Mỹ đang thảo luận về “những liên quan mang tính thống kê” (statistical association) giữa CĐDC với một số căn bệnh trong các báo cáo mỗi năm 2 lần theo yêu cầu của Quốc hội Mỹ.
Tuy nhiên, ủy ban này hồi 2006 khẳng định “mục tiêu là tìm kiếm sự liên quan chứ không phải khẳng định nguyên nhân giữa CĐDC và ảnh hưởng đối với sức khỏe”. Chúng tôi xem trọng những người lính và những ảnh hưởng đối với họ trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Chúng tôi tin rằng với những vấn đề nảy sinh do cuộc chiến tranh sẽ được chính phủ giải quyết”.
Hồi đáp bức thư của trưởng văn phòng đại diện Monsanto, ông Len Aldis chỉ rõ các nhà sản xuất lúc đó thừa biết mức độ nguy hiểm của chất hóa học dioxin, sản phẩm phụ trong quá trình sản xuất CĐDC, tuy nhiên họ đã giữ kín điều này. Do Chính phủ Mỹ yêu cầu cung cấp nhiều hơn nữa CĐDC nên việc sản xuất chất độc hóa học ngày càng được đẩy mạnh và hệ quả chất độc dioxin càng được sản sinh nhiều hơn.
Ông Len Aldis nhấn mạnh việc làm của các công ty trên là che giấu dư luận. Các nhà sản xuất, trong đó có Monsanto, phải cùng Chính phủ Mỹ chịu trách nhiệm đối với những hậu quả khủng khiếp mà các nạn nhân CĐDC Việt Nam phải gánh chịu. Các cựu chiến binh Mỹ đã thành công trong vụ kiện chống lại các công ty hóa chất Mỹ sản xuất CĐDC, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực với sức khỏe của họ và con cái họ.
Về việc Monsanto cho rằng “những nghiên cứu đều không chỉ ra một cách rõ ràng sự liên quan giữa CĐDC và những bệnh tật mà các nhà khoa học đã tìm ra”, ông Len Aldis lập luận: “Năm 1984, Monsanto cùng các công ty sản xuất CĐDC đã phải chịu sự phán quyết của tòa án đền bù 184 triệu USD cho các cựu chiến binh của Mỹ tham gia cuộc chiến tranh tại Việt Nam.
Nếu như CĐDC không ảnh hưởng gì đến sức khỏe con người, các công ty Mỹ sao lại phải bồi thường? Quân đội Mỹ đã rải 80 triệu lít CĐDC xuống nhiều khu vực tại miền Nam Việt Nam. Những ảnh hưởng tiêu cực từ thứ hóa chất chết người này đối với người dân Việt Nam là không thể chối cãi.
Thiết nghĩ, Monsanto, Dow Chemical cùng nhiều công ty hóa chất của Mỹ có thể trốn tránh, không thừa nhận trách nhiệm của mình trong ngày một, ngày hai nhưng sớm muộn họ sẽ phải cúi đầu trước công lý, phải chịu trách nhiệm trước những việc làm phi nhân tính, vô đạo đức đối với hàng triệu người dân Việt Nam”.
Đỗ Văn
Theo Sở Công thương TPHCM, Công ty Dow Chemical International Ltd (Mỹ) được cấp giấy phép số 41-000918 lập văn phòng đại diện tại TPHCM ngày 13-4-2007 và bắt đầu hoạt động từ ngày 31-5-2007, thời gian hoạt động 5 năm tính từ ngày cấp phép. Trưởng văn phòng đại diện là bà Nguyễn Xuân Kim Phượng. Lĩnh vực hoạt động gồm nhập khẩu và kinh doanh hóa chất, nhựa. Công ty Monsanto Thailand Ltd., (trụ sở tại Thái Lan, trụ sở chính tại Mỹ) được cấp giấy phép số 41-000451 cấp ngày 6-2-2007 và bắt đầu hoạt động ngày 6-4-2007, thời gian hoạt động 5 năm tính từ ngày cấp phép. Trưởng chi nhánh là ông Nguyễn Anh Thi. Lĩnh vực hoạt động: dược, hóa chất, nhựa, giống nông nghiệp… Theo Sở Kế hoạch - Đầu tư TPHCM, Công ty Dow Chemical International đang lập thủ tục xin giấy phép đầu tư tại TPHCM. Dow Chemical có trụ sở tại Midland, bang Michigan, Mỹ, là công ty hóa chất lớn thứ hai trên thế giới về doanh thu (sau BASF) tính đến năm 2009; lớn thứ ba thế giới về huy động vốn (sau BASF và DuPont). Dow Chemical và Monsanto là 2 trong 7 công ty sản xuất hơn 15 hợp chất dùng trong chiến tranh Việt Nam theo hợp đồng với Chính phủ Mỹ năm 1965. Trong các chất này có napalm (dùng làm bom napalm) và chất da cam. Điều đáng lưu ý, sau khi bị công luận phản đối, thậm chí tẩy chay, nhiều công ty đã ngừng hợp đồng sản xuất với Chính phủ Mỹ, chỉ còn lại duy nhất công ty Dow tiếp tục sản xuất đến năm 1969. Th.Vũ |
Bài 4: Một phần lịch sử của nhân loại
50 năm đã trôi qua, 50 năm dài đằng đẵng kể từ khi chất độc da cam đẩy hàng triệu người dân vô tội và thế hệ con cháu của họ đến với cơn ác mộng dai dẳng nhất cuộc đời. Chặng đường tìm đến công lý cho những số phận chịu quá nhiều thiệt thòi ấy vẫn đang được san sẻ một cách thầm lặng và tận tụy bởi những hoạt động quy mô lớn, nhỏ khác nhau. Đó không chỉ là nỗ lực từ đồng bào trên chính quê hương Việt Nam mà còn là nghĩa cử cao đẹp, đáng trân trọng từ tấm lòng quý giá của bạn bè năm châu.
Đầu năm nay, Hội Nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (VAVA) đã vinh danh 99 tổ chức, cá nhân trong chương trình “Tri ân tấm lòng vàng vì nạn nhân da cam”, trong đó có 33 tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Từ vật chất đến tinh thần
Tháng 4-2006, Thái tử vương quốc Brunei Haji Al-Muhtadee Billah và phu nhân đã gửi 50.000 USD đến VAVA để giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam. Số tiền trên được dùng xây dựng nhà ở, khám chữa bệnh và hỗ trợ phát triển kinh tế cho các nạn nhân chất độc da cam.
Bên cạnh đó, cộng đồng người Việt tại nhiều quốc gia cũng hỗ trợ tinh thần và vật chất lớn dành cho nạn nhân chất độc da cam. Trong danh sách 33 tổ chức, cá nhân nước ngoài được VAVA vinh danh lần này có cộng đồng người Việt Nam tại Ba Lan, Lào, Phần Lan, Vương quốc Anh…
Ngoài ra, cộng đồng kiều bào, tổng lãnh sự quán Việt Nam tại nhiều quốc gia như Bỉ, Romania, Nga, Hàn Quốc… thường xuyên tổ chức những triển lãm, chương trình văn nghệ độc đáo để gây quỹ cho nạn nhân da cam Việt Nam.
Cuối tháng 3 vừa qua, cựu binh Roy Mike Boehm và những thành viên thuộc Tổ chức xã hội từ thiện Madison Quakers (Mỹ) đã cùng trình diễn đàn violon, sáo, guitar, mandolin gây quỹ giúp nạn nhân chất độc da cam tại thành phố Quảng Ngãi. Đến nay cựu binh này đã quyên góp hơn 4 tỷ đồng, tạo điều kiện cho trên 500 phụ nữ vùng nông thôn, miền núi Quảng Ngãi vay vốn chăn nuôi, trồng trọt. Ông còn quyên góp hơn 535 triệu đồng xây tặng 35 nhà tình thương tặng nạn nhân chất độc da cam, cựu chiến binh.
Một số tổ chức ở Mỹ như Quỹ Ford, “Sự nghiệp Chung” (Common Cause), Trẻ em Việt Nam (Children of Vietnam)… đã nhận ra những hậu quả của chất độc da cam đang tiếp diễn trong cộng đồng Việt Nam. Thành viên của các tổ chức này đang tham gia vào Sáng kiến Đặc biệt về chất độc da cam/dioxin do Quỹ Ford phát động nhằm quyên góp 300 triệu USD trong vòng 10 năm để giúp Việt Nam tẩy sạch các điểm bị nhiễm chất độc da cam và cung cấp dịch vụ y tế cho các gia đình và trẻ em bị ảnh hưởng của chất độc da cam.
Đến nay, những người phát động sáng kiến đã quyên góp được khoảng 10% số tiền, bao gồm cả 15 triệu USD mà Chính phủ Mỹ đã cam kết ủng hộ.
Năm ngoái, nhân 49 năm ngày thảm họa da cam ở Việt Nam, tổ chức nhân đạo mang tên “Chiến dịch cứu trợ và trách nhiệm đối với nạn nhân chất độc da cam Việt Nam” (VAORRC, được thành lập từ tháng 2-2005) đã đưa ra thông điệp: “Giờ là lúc hành động” trên trang web www.vn-agentorange.org. Đồng thời, tổ chức này kêu gọi mọi người ký vào một thẻ màu da cam.
Số lượng chữ ký (kế hoạch ban đầu thu thập 1 triệu chữ ký) sẽ được dùng để vận động các nghị sĩ Mỹ thông qua một đạo luật liên quan đến nạn nhân chất hóa học này. Thẻ màu da cam nói trên ghi những yêu cầu đối với các nghị sĩ Mỹ, gồm thông qua luật hỗ trợ dịch vụ y tế, hồi phục, chăm sóc sức khỏe đối với các nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam, Mỹ và con cháu của họ, tẩy độc môi trường tại các “điểm nóng” ở Việt Nam.
Theo bà Merle E. Ratner, điều phối viên của VAORC, nếu đạo luật được thông qua sẽ giải quyết toàn diện nhu cầu của nạn nhân chất độc da cam/dioxin tại Mỹ và Việt Nam.
Góp tiếng cho cuộc chiến công lý
Trong cuộc đấu tranh nhân danh công lý, đòi lại công bằng cho nạn nhân da cam Việt Nam, nhiều cá nhân và tổ chức đã mạnh mẽ lên án những công ty hóa chất như Monsanto, Dow Chemical. Tháng 4-2010, hàng ngàn người dân tại thành phố New York đã xuống đường biểu tình đòi Công ty hóa chất Dow Chemical phải có trách nhiệm với các nạn nhân chất độc da cam Việt Nam.
Ngày Quốc tế Lao động 1-5 năm 2009 của Pháp đã để lại ấn tượng sâu đậm đối với du khách nước ngoài khi hàng chục ngàn người tham gia biểu tình ủng hộ cuộc đấu tranh đòi công lý của các nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam.
Cũng trong năm 2009, một sự kiện lớn diễn ra ở thủ đô Paris của Pháp đã đánh động đến sự quan tâm của dư luận quốc tế. Đó là phiên tòa công luận quốc tế ủng hộ nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam diễn ra trong hai ngày 15 và 16-5.
Sự kiện này được tổ chức theo sáng kiến của Hội Luật gia dân chủ quốc tế, phối hợp với nhiều tổ chức quốc tế ủng hộ nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, như Tổ chức Quyền bình đẳng, Hội Hữu nghị Pháp - Việt, Hiệp Hội nhân quyền quốc tế, Hội Các cựu chiến binh Cộng hòa Pháp, Collectif Vietnam Dioxine, Ủy ban Làng hữu nghị Vân Canh và Phong trào Vì hòa bình. 8 luật sư nổi tiếng đến từ các nước Algeria, Chile, Nhật Bản, Mỹ và Romania tham dự với tư cách quan tòa.
Nguyên đơn là các nạn nhân Việt Nam, bị đơn là các công ty hóa chất Mỹ đã cung cấp chất diệt cỏ sử dụng trong cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Tham dự phiên tòa còn có các đoàn nạn nhân chất độc da cam đến từ Mỹ, Hàn Quốc, Australia, Nhật Bản và New Zealand.
Phiên tòa đã mang đến công chúng cơ hội tận mắt chứng kiến những cơ thể tàn tật, các di ảnh của người đã khuất, nghe những lời tâm sự đầy nước mắt và nỗi đau của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, của những người vợ cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Đây cũng là dịp để cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chất độc da cam (trong 80 triệu lít chất diệt cỏ) mà quân đội Mỹ đã sử dụng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Phần biện hộ của các luật sư đã thu hút mạnh mẽ sự chú ý của các vị thẩm phán và người nghe. Luật sư người Mỹ Jeanne Mirer đưa ra nhiều cơ sở pháp lý để chứng minh các công ty hóa chất Mỹ phải chịu trách nhiệm về các sản phẩm của họ gây ra.
Đặc biệt, phiên tòa lặng đi với phần lập luận của luật sư Roland Weyl người Pháp - Chủ tịch Hội Quyền và tự do, thành viên Hội Luật gia dân chủ quốc tế khi buộc tội những công ty hóa chất đã cung cấp chất diệt cỏ cho quân đội Mỹ, phải bồi thường cho những mất mát, đau thương mà các nạn nhân đang phải gánh chịu. Đã đến lúc phải trả lại sự công bằng cho hơn 3 triệu nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam.
Theo luật sư Roland Weyl, nếu các cựu chiến binh Mỹ đã được bồi thường thì các nạn nhân Việt Nam phải được bồi thường nhiều hơn vì họ không chỉ là nạn nhân của chất độc da cam/dioxin mà còn là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bên cạnh sự bù đắp về thiệt hại đối với con người, các công ty hóa chất Mỹ còn phải có trách nhiệm trong việc giảm tối đa những tác hại của chất độc da cam/dioxin đối với môi trường sinh thái ở Việt Nam, nhất là ở những điểm nóng, nơi có nồng độ dioxin cao như các khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Phần trình bày của ông đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ hầu hết những ai có mặt tại phiên tòa.
Cuộc chiến chưa kết thúc
| |
“Cuộc chiến chưa phải đã kết thúc khi những người lính cuối cùng rời khỏi chiến trường... Nay là thời điểm để mọi người hòa chung những nỗ lực nhân đạo nhằm giúp người dân Việt Nam đang phải gánh chịu hậu quả của chất độc da cam”, ông Bob Edgar, một hạ nghị sĩ vào thời điểm cuộc chiến tranh tại Việt Nam kết thúc năm 1975, hiện là Chủ tịch tổ chức phi lợi nhuận “Sự nghiệp chung” (Common Cause) của Mỹ, đã khẳng định như vậy tại một buổi thảo luận tổ chức tại Trường Đại học San Francisco, thuộc bang California hồi tháng 3-2011. Ông đã từng đệ trình Quốc hội Mỹ một dự luật nhằm giúp cựu chiến binh Mỹ bị ảnh hưởng của chất độc da cam và đang tập trung vào nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam.
Cùng với lời kêu gọi của cựu nghị sĩ Edgar, báo The Old Gold & Black của ĐH Wake Forest (bang Carolina), trong số ra ngày 28-2 đăng bài: “Hậu quả của chất độc da cam vẫn tồn tại tại Việt Nam” đã khẳng định sau hơn 3 thập niên chiến tranh chấm dứt, chất độc da cam vẫn để lại hậu quả nặng nề, hiện rõ trên thể xác của những trẻ em vô tội. Bài báo kêu gọi thế giới đoàn kết bên cạnh người dân Việt Nam trong cuộc chiến đòi công lý cho các nạn nhân của loại chất độc hóa học này.
Trên các trang mạng xã hội, những thông tin về chất độc da cam và nạn nhân da cam Việt Nam ngày càng được cập nhật đầy đủ. Những người bạn quốc tế với những hành động thiết thực đang thực sự đồng hành cùng nạn nhân da cam Việt Nam.
NHƯ QUỲNH