Những đánh giá tại Diễn đàn Công nghiệp hỗ trợ - HASI 2025 cho thấy, đã đến lúc TPHCM nói riêng và Việt Nam nói chung phải chuyển chiến lược từ hỗ trợ đơn lẻ sang phát triển hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ (CNHT) theo mô hình chuẩn hóa, liên kết, số hóa.
Rút ngắn khoảng trống năng lực và thực tiễn cung ứng
Báo cáo kinh tế quý 3-2025 của Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM ghi nhận nhóm doanh nghiệp sản xuất chịu áp lực lớn từ chi phí đầu vào và biến động thị trường quốc tế, trong khi năng lực tự chủ nguyên phụ liệu còn hạn chế. Hơn 41% doanh nghiệp báo cáo lợi nhuận giảm; 32% doanh nghiệp phản ánh khó tiếp cận nguồn cung đầu vào nội địa. Điều này phản ánh rõ ràng thực tế: doanh nghiệp Việt vẫn phụ thuộc quá lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt trong các ngành điện tử, cơ khí chính xác và thiết bị công nghệ cao.
Tại HASI 2025, bà Trương Thị Chí Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI), phân tích rằng phần lớn doanh nghiệp CNHT Việt Nam chỉ dừng ở mức cung ứng hạng 3-4, chưa đủ tiêu chuẩn để bước vào hệ thống cung ứng của Mỹ, Nhật Bản hay châu Âu. Nhiều doanh nghiệp có máy móc hiện đại nhưng thiếu hệ thống quản trị chất lượng, thiếu chuẩn ISO - IATF, hoặc chưa đáp ứng yêu cầu ESG (môi trường, xã hội và quản trị). Theo bà, điểm yếu nhất của doanh nghiệp Việt không phải thiết bị, mà là chuẩn hóa và độ ổn định.
Ông Nguyễn Ngọc Đăng Khoa, Phó giám đốc Công ty TNHH SMC Manufacturing, cũng nhấn mạnh tiêu chuẩn mới của chuỗi cung ứng toàn cầu là dữ liệu thời gian thực, độ chính xác cao và khả năng giao hàng ổn định. “Nếu doanh nghiệp không số hóa dữ liệu sản xuất và chứng minh quy trình không sai lệch, họ không thể vượt qua vòng loại của các tập đoàn Nhật Bản hoặc châu Âu”, ông Khoa nhấn mạnh. Các hiệp hội quốc tế cũng có nhận định tương tự. Ông Erick Contreras, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) cho rằng, chính sách chưa đồng bộ và thiếu nguồn cung cấp đủ lớn làm giảm tốc độ nội địa hóa. Còn đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ, Nhật Bản khẳng định, doanh nghiệp nước ngoài nói chung và Hoa Kỳ, Nhật Bản nói riêng muốn tăng mua linh kiện từ Việt Nam nhưng cần hệ sinh thái nhà cung ứng đủ độ sâu. Về phía Tổ chức Xúc tiến ngoại thương Nhật Bản (JETRO) nhìn nhận, chi phí logistics cao và dữ liệu phân mảnh khiến nhà cung ứng sản phẩm CNHT Việt Nam khó cạnh tranh với Thái Lan, Malaysia.
Theo phân tích của Sở Công thương TPHCM, nhu cầu linh kiện, phụ tùng của các ngành điện tử, ô tô, thiết bị y tế, cơ khí công nghệ cao tại khu vực Đông Nam bộ đã vượt 45 tỷ USD/năm, nhưng khả năng đáp ứng trong nước chỉ chiếm dưới 20%. Sự lệch pha giữa thị trường và năng lực cung ứng đang làm giảm giá trị gia tăng của nền sản xuất.
Chuẩn hóa, liên kết, chuyển đổi số
Thay vì cách tiếp cận trải rộng, nhiều chuyên gia đề nghị chuyển sang mô hình “3 trụ cột”: chuẩn hóa, liên kết, chuyển đổi số. Theo bà Lê Nguyễn Duy Oanh, Phó giám đốc Trung tâm Phát triển CNHT, Sở Công thương TPHCM, thành phố đang triển khai chương trình tổng thể nâng chuẩn doanh nghiệp CNHT theo mô hình của Nhật Bản và Hàn Quốc. “Các doanh nghiệp sẽ được đánh giá hiện trạng, xác định điểm yếu, sau đó được đào tạo, hỗ trợ cải thiện quy trình từng bước. Mục tiêu của chúng tôi không chỉ là tăng số lượng doanh nghiệp cung ứng, mà là tạo ra các nhà cung ứng đạt chuẩn khu vực”, bà Oanh cho biết.
TPHCM cũng đang xây dựng cơ sở dữ liệu CNHT liên thông để kết nối doanh nghiệp FDI - doanh nghiệp nội địa. Dựa trên dữ liệu này, thành phố sẽ công bố “bản đồ năng lực CNHT TPHCM” vào năm 2026, cho phép doanh nghiệp quốc tế tìm kiếm nhà cung ứng theo tiêu chuẩn, ngành hàng và năng lực kỹ thuật. Đây được xem là bước tiến quan trọng để giảm chi phí kết nối và hình thành hệ sinh thái CNHT thống nhất thay vì manh mún như hiện nay.
Về đổi mới công nghệ, ông Lê Trường Duy, Giám đốc Trung tâm Cách mạng công nghiệp 4.0 tại TPHCM, cho biết trung tâm đang vận hành mô hình nhà máy thông minh thí điểm, nơi doanh nghiệp CNHT có thể xem trực tiếp quy trình robot - tự động hóa - AI kiểm lỗi - hệ thống quản trị dữ liệu - các bài toán tối ưu năng lượng. “Nếu doanh nghiệp không số hóa toàn bộ quy trình, họ không thể bước vào chuỗi cung ứng mới vốn đang vận hành theo mô hình thời gian thực”, ông Duy chia sẻ.
Theo ông Lê Trường Duy, giai đoạn 2025-2030, TPHCM sẽ triển khai chương trình “Nhà máy số cho doanh nghiệp CNHT”, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng công nghệ số trong quản lý sản xuất, quản lý lỗi, truy xuất dữ liệu và kết nối với khách hàng quốc tế. Điều này giúp rút ngắn khoảng cách giữa yêu cầu của thị trường và năng lực thực tế của doanh nghiệp nội địa.
Các chuyên gia từ IPADS và VASI cũng nhấn mạnh rằng phát triển CNHT không chỉ là câu chuyện của doanh nghiệp mà còn là câu chuyện của chính sách. Cần ưu đãi tín dụng cho đổi mới công nghệ; cơ chế lựa chọn nhà thầu có tỷ lệ nội địa hóa; chương trình nghiên cứu và phát triển (R&D) cho doanh nghiệp công nghiệp... Nhìn tổng thể, sự kết hợp giữa chính sách hỗ trợ - hạ tầng số 4.0 - chương trình nâng chuẩn và kết nối cung ứng đang mở ra hướng đi mới cho ngành CNHT Việt Nam. Nếu được triển khai đồng bộ, đây sẽ là đòn bẩy quan trọng để Việt Nam xây dựng giá trị cao hơn trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Không cải cách logistics, công nghiệp hỗ trợ khó bứt phá
PGS-TS Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam, cho rằng, chi phí logistics cao và dữ liệu phân mảnh đang là rào cản lớn nhất hạn chế khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp CNHT Việt Nam. Theo bà, tỷ lệ chi phí logistics 16-17% GDP của Việt Nam cao gần gấp đôi Thái Lan và Trung Quốc, khiến chi phí sản xuất linh kiện Việt Nam bị đội lên đáng kể. “Một doanh nghiệp có thể đạt chuẩn kỹ thuật, nhưng nếu logistics chậm hoặc thiếu minh bạch, đơn hàng sẽ chạy sang quốc gia khác”, PGS-TS Hồ Thị Thu Hòa lưu ý. Kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu và phát triển Logistics Việt Nam cho thấy, hơn 70% doanh nghiệp CNHT chưa có khả năng quản lý chuỗi cung ứng tích hợp; 90% chưa áp dụng nền tảng số trong quản lý vận hành và phần lớn chưa kết nối dữ liệu theo thời gian thực với khách hàng. Trong khi đó, xu hướng của chuỗi cung ứng quốc tế đang chuyển sang chuỗi cung ứng thời gian thực, đòi hỏi nhà cung ứng phải minh bạch tồn kho, chất lượng và năng lực giao hàng từng giờ.
Theo PGS-TS Hồ Thị Thu Hòa, giải pháp không nằm ở mở rộng kho bãi hay vận tải đơn thuần, mà là xây dựng chuỗi cung ứng số quốc gia. Việt Nam cần phát triển nền tảng dữ liệu logistics thống nhất, chuẩn hóa quy trình, xây dựng cụm logistics - CNHT tích hợp tại TPHCM, Đồng Nai và hỗ trợ doanh nghiệp triển khai mô hình IMTO. Chỉ khi logistics đi trước một bước, doanh nghiệp CNHT mới giảm được chi phí 3-5% cho mỗi giao dịch và nâng năng lực cạnh tranh với nhà cung ứng khu vực.
Năng lực lõi của doanh nghiệp chính là chìa khóa
Ông Otsuka Tetsuhisa, Tổng Giám đốc NC Network Việt Nam, chuyên gia kết nối nhà cung ứng Nhật Bản, cho rằng, Việt Nam có số lượng doanh nghiệp đông nhưng tỷ lệ doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế. NC Network tiếp nhận hàng ngàn yêu cầu tìm nhà cung ứng mỗi năm, nhưng số doanh nghiệp Việt đạt chuẩn về kỹ thuật, ổn định và khả năng quản trị dữ liệu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.
Ông Otsuka nhận xét nhiều doanh nghiệp đầu tư máy móc hiện đại nhưng lại không đầu tư tương xứng cho con người, dẫn đến năng lực cải tiến thấp. Máy móc tốt không tạo ra sản phẩm tốt nếu không có quy trình và văn hóa chất lượng. Ông nhấn mạnh, doanh nghiệp Việt thường làm quá nhiều lĩnh vực, thiếu năng lực lõi. Trong khi đó, chuỗi cung ứng Nhật Bản chỉ chọn nhà cung ứng chuyên sâu một nhóm linh kiện duy nhất.
Để doanh nghiệp Việt bước vào chuỗi cung ứng khó tính như Nhật Bản, ông Otsuka đề nghị triển khai chương trình đào tạo Monozukuri, xây dựng cơ chế audit nhà cung ứng theo thời gian thực và hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng năng lực quản trị chất lượng toàn diện. “Kết nối không phải là kết quả, năng lực lõi mới là chìa khóa. Nếu doanh nghiệp không xây nền móng vững, mọi chương trình kết nối chỉ dừng ở mức làm quen”, ông Otsuka đánh giá.