Tài liệu giải mật “Lý thuyết tên điên rồ”

Tài liệu giải mật “Lý thuyết tên điên rồ”

Đó là một kịch bản tuyệt mật chỉ bốn người biết: Tổng thống Mỹ Richard Nixon; cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger; tùy viên của Kissinger – đại tá Alexander Haig và chánh văn phòng Nhà Trắng H. R. “Bob” Haldeman.

Nixon thực hiện kịch bản trên nhằm rút lui khỏi Việt Nam trong danh dự đồng thời bảo vệ được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Nội dung kịch bản là “chính sách ngoại giao tam giác” – một trò chơi đấu trí giữa ba trục Hà Nội-Mátxcơva-Bắc Kinh – và trong ngôn ngữ riêng Nhà Trắng, nó được gọi là “lý thuyết tên điên rồ” (Madman Theory).

Cụ thể, “lý thuyết tên điên rồ” là gì? Thử xem tài liệu mới giải mật của Cục tàng thư quốc gia Hoa Kỳ, bài viết trên The Bulletin of the Atomic Scientists cùng các bài báo trên Washington Post và New York Times gần đây.

  • Kế hoạch được thai nghén như thế nào?
Tài liệu giải mật “Lý thuyết tên điên rồ” ảnh 1

Nguyễn Văn Thiệu và Nixon.

Bảy ngày sau khi nhậm chức tổng thống, Nixon gặp Cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, Bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird và Tổng tư lệnh bộ tham mưu liên quân Hoa Kỳ Earle Wheeler, thảo luận về “khả năng thực hiện một chương trình hành động quân sự nhằm buộc Bắc Việt ngồi vào bàn đàm phán Paris”.

Đánh giá rằng Mátxcơva có ảnh hưởng quan trọng đến Hà Nội, Nixon cũng gặp riêng Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin vào ngày 17-2-1969. Ngày 17-3-1969, Nixon gửi một thông điệp cụ thể đến Mátxcơva lẫn Hà Nội bằng chiến dịch “Bữa điểm tâm” dội bom Campuchia.

“Bữa điểm tâm” là tín hiệu gửi trực tiếp đến Hà Nội, rằng nội các Nixon hoàn toàn khác so với nội các tiền nhiệm và rằng Nixon “nói đánh là đánh” và “khi đánh thì chỉ có chết”! Cùng lúc, Nixon bắt đầu tiến hành kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”. Ngày 10-4-1969, ông ra lệnh lập thời gian biểu cho cuộc rút quân Mỹ khỏi chiến trường Việt Nam.

Tại cuộc gặp Nguyễn Văn Thiệu ở Midway ngày 8-6-1969, Nixon thông báo rằng 25.000 lính Mỹ sẽ được rút khỏi Việt Nam từ 1-7 đến 31-8-1969. Thời điểm này, cuộc so găng ngoại giao giữa Mỹ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên sàn đấu Paris gần như bế tắc.

Ngày 15-7-1969, Nixon gửi thư riêng cho Hồ Chủ tịch với nội dung yêu cầu “tiến đến bàn đàm phán Paris nhằm tìm giải pháp sớm cho cuộc chiến bi kịch”. Ngày 30-8, Hà Nội hồi âm, bác bỏ những điều khoản đàm phán của Nixon và đưa ra phác thảo riêng.

Đầu tháng 9-1969, Kissinger thành lập nhóm an ninh quốc gia riêng, gọi là “Nhóm tháng chín”, nhằm khai thông cục diện bế tắc. Đồng thời, Kissinger gặp tướng Wheeler, ra lệnh lập sẵn kế hoạch quân sự tấn công Bắc Việt, một khi Hà Nội nhất quyết không theo yêu cầu Washington. Tuy nhiên, kịch bản quan trọng nhất của Nixon không phải là tấn công Bắc Việt mà là tung một “hư chiêu” nhằm vào Liên Xô.

  • Đòn hỏa mù

Cụ thể, kịch bản là Washington báo động toàn diện cho tất cả quân đội Mỹ đóng khắp thế giới, làm như Mỹ chuẩn bị bước vào một cuộc đại thế chiến. Các bộ chỉ huy quân đội Mỹ đều được báo động đỏ, từ Bộ tư lệnh không quân chiến lược (SAC), Bộ tư lệnh châu Âu, Bộ tư lệnh Thái Bình Dương đến Bộ tư lệnh Bắc Mỹ… 8 giờ sáng thứ hai 13-10-1969, SAC đột ngột ra lệnh hủy các chuyến bay huấn luyện chiến thuật và đặt tình trạng báo động cấp cao nhất cho tất cả oanh tạc cơ chuyên đánh bom hạt nhân.

Mọi động thái cho thấy dường như Mỹ chuẩn bị thực hiện một cuộc chiến qui mô và chắc chắn dùng đến bom hạt nhân.

Không tướng tá-sĩ quan Mỹ nào có thể đoán được điều gì thật sự xảy ra và tất nhiên họ không biết mục tiêu là nơi nào. Nếu động binh lớn như vậy, hẳn nhiên mục tiêu phải rất quan trọng. Liên Xô chăng? Không khí tại tất cả Bộ tư lệnh lẫn doanh trại lính Mỹ khắp thế giới – trừ lực lượng quân đội Mỹ ở Việt Nam – cực kỳ căng thẳng.

Tại Bộ tư lệnh châu Âu, tướng Andrew J. Goodpaster được lệnh cắm trại 24/24 và an ninh doanh trại được thắt chặt tối đa... Như nói ở trên, tất cả chuyển động trên đều là báo động giả, được thiết kế nhằm làm Mátxcơva hoang mang. Liên Xô buộc phải đoán già, đoán non chuyện gì sắp xảy tới và có phải Mỹ sẽ tấn công mình, bởi không lẽ tự nhiên quân đội Mỹ lại báo động mức cao như vậy?...

  • Phá sản!
Tài liệu giải mật “Lý thuyết tên điên rồ” ảnh 2

Bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird với phác họa chiến dịch “Ngoại giao tam giác”.

Nếu đúng Mátxcơva thật sự hoang mang (khi quan sát động thái quân sự bất thường của Mỹ), họ đã lọt vào bẫy Washington. Trên bề mặt, khó có thể nghĩ rằng Mátxcơva không lo lắng (ít nhất đó cũng là những gì Washington lầm tưởng), trong bối cảnh các cuộc chuyển quân của Mỹ ngày càng rầm rộ.

Toàn bộ tàu khu trục Mỹ tại Trung Đông được dàn đến vịnh Aden, trong khi tàu chiến hạng nặng USS Newport News cùng một nhóm sĩ quan chuyên đánh tàu ngầm với sự chỉ huy của hàng không mẫu hạm Yorktown phóng thẳng đến Bắc Đại Tây Dương.

Hai hàng không mẫu hạm khác, Forrestal và Franklin D. Roosevelt, được lệnh rời cảng Virginia và Florida, trực chỉ Tây Đại Tây Dương.

Tướng Wheeler còn ra lệnh tàu chiến Mỹ giám sát tàu chiến Liên Xô cũng như theo dõi mọi tuyến hàng hải vào-ra biển Bering. Kissinger thậm chí muốn đưa một hàng không mẫu hạm đến vịnh Bắc bộ nhưng Nixon không đồng ý.

Sau vài ngày nhốn nháo, ngày 17-10-1969, Đại sứ Liên Xô Dobyrnin xin gặp Nixon. Kissinger lập luận: chắc Mátxcơva đã hiểu được thông điệp Washington, rằng nếu không muốn dính vào cuộc đối đầu quân sự với Mỹ thì liệu hồn mà khuyên can Bắc Việt.

Không như Nhà Trắng tưởng, trong cuộc gặp Nixon ngày 20-10-1969, Dobyrnin không thèm đá động đến tình hình Việt Nam. Nói một cách khác Mátxcơva đã không mắc lỡm!

Ngày 28-10-1969, Tổng tư lệnh bộ tham mưu liên quân Hoa Kỳ (tạm quyền) William Westmoreland báo cáo Bộ trưởng quốc phòng Laird rằng không thấy Liên Xô có phản ứng quan trọng gì tại khu vực châu Âu và Đại Tây Dương.

Được triển khai từ ngày 13-10-1969, chiến dịch tung hỏa mù cuối cùng kết thúc vào ngày 30-10-1969. Không có một kết quả tích cực nào. Mátxcơva vẫn bất động. Đến nay, giới sử học quân sự Mỹ vẫn không biết chính xác Mátxcơva thời điểm năm 1969 thật sự tính toán gì. Rất có thể Liên Xô án binh bất động vì họ đã nắm được thông tin tình báo và biết màn động binh của Mỹ chỉ là trò hù dọa.

Riêng với “cơn nhức đầu Việt Nam”, Nixon tiếp tục chịu đựng thêm vài năm sau và vẫn không suy chuyển được thái độ kiên quyết trong đàm phán của Hà Nội. Nixon phải dùng đến B-52, không phải “hư chiêu” nữa mà là chiến dịch dội bom thật sự tiến hành trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, nhằm “nghiền nát ý chí bọn cộng sản”.

Một lần nữa, cả với cú đấm thật này, Washington vẫn không thắng nổi Hà Nội. Kẻ điên rồ cuối cùng tự giết chết sự nghiệp chính trị mình với một “lý thuyết” điên rồ áp dụng trong vụ xìcăngđan điên rồ Watergate.

HOÀNG MINH

Tin cùng chuyên mục