Dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất

Tăng vốn đầu tư, hiệu quả có tăng?

Tăng vốn đầu tư, hiệu quả có tăng?

Hôm nay 8-6, Quốc hội sẽ thảo luận về tình hình triển khai dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Bên hành lang kỳ họp Quốc hội, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Chủ tịch HĐQT PetroVietnam, ông Phạm Quang Dự.

- Phóng viên: Thưa ông, phải chăng việc hợp đồng gói thầu chính của dự án được ký ngay trước khi Quốc hội thảo luận là nhằm làm “giảm nhẹ” trách nhiệm về việc dự án thực hiện quá chậm?

- Ông PHẠM QUANG DỰ:
Việc PetroVietnam ký hợp đồng gói thầu chính của dự án không phụ thuộc vào chương trình thảo luận của Quốc hội, bởi việc chuẩn bị cho đàm phán, ký kết gói thầu này đã kéo dài khá lâu. Tính từ thời điểm Chính phủ cho phép đàm phán đến nay đã được 3 năm.

Tăng vốn đầu tư, hiệu quả có tăng? ảnh 1

Ông Phạm Quang Dự.

Hơn nữa, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam có một hợp đồng lớn tới hàng tỷ USD, lại có nội dung kỹ thuật rất phức tạp. Trong quá trình triển khai dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, đã có nhiều sự thay đổi: thay đổi chủ trương đầu tư, thay đổi chủ đầu tư…, nên đã kéo theo nhiều thay đổi về nội dung của công trình. Không những về thu xếp vốn, mà còn về công nghệ cho nhà máy.

Tuy nhiên, việc ký hợp đồng trước khi Quốc hội thảo luận cũng có ý nghĩa nhất định: dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, của Ban chỉ đạo công trình trọng điểm quốc gia, hợp đồng chính của dự án đã được ký kết, thể hiện quyết tâm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, dù còn có nhiều ý kiến khác nhau.

- Nhưng giá cho đầu vào tăng từ 1,5 tỷ USD lên 2,5 tỷ USD, thì giá cho sản phẩm đầu ra có tăng, nghĩa là hiệu quả kinh tế của dự án ra sao khi tổng đầu tư tăng thêm 1 tỷ USD so với dự toán ban đầu?

- Năm 1997, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì tổng vốn đầu tư là 1,5 tỷ USD. Bây giờ nhiều người còn nhầm lẫn, nghĩ rằng Quốc hội phải duyệt lại khi tổng đầu tư tăng. Nhưng không phải, vì Quốc hội chỉ quyết định về chủ trương đầu tư và giao cho Chính phủ cân đối vốn.

Cần phải nhớ lại rằng, năm 1997, khi quyết định tổng vốn đầu tư là 1,5 tỷ USD, thì mặt bằng giá dầu thô lúc đó là trên dưới 20USD/thùng, thậm chí năm 1998 tụt xuống còn 10-12USD/thùng. Với mặt bằng như vậy thì giá sản phẩm qua lọc dầu cũng tương ứng.

Lợi nhuận lọc dầu chỉ là cộng thêm khoảng vài USD/thùng so với giá dầu thô. Còn hiện nay, giá dầu thô là trên 50USD/thùng, gấp 2,5 lần giá dầu thô ở thời điểm năm 1997. Tương ứng với đó, giá sản phẩm qua lọc dầu cũng tăng khoảng 2,5 lần. Rõ ràng, với mặt bằng tăng như vậy thì tổng mức đầu tư ở 2 thời điểm là phải hoàn toàn khác nhau.

Tôi không nói rằng, tổng mức đầu tư cũng tăng 2,5 lần, nhưng nó có một điểm quan trọng: khi giá dầu thô và giá sản phẩm qua lọc dầu tăng và cung - cầu trên thế giới hiện đang gay gắt, thì nhiều nhà đầu tư đổ xô vào xây dựng nhà máy lọc dầu. Điều này kéo theo giá sắt thép, nguyên vật liệu tăng, trong khi các nhà chế tạo thiết bị không kịp sản xuất. Tổng đầu tư tăng lên là vì thế.

- Thưa ông, đến năm 2009, khi Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, chúng ta có còn xuất khẩu dầu thô nữa không, hay đưa hết vào lọc dầu?

- Theo định hướng phát triển của ngành dầu khí trong những năm tới, mỗi năm chúng ta sẽ khai thác khoảng 18-20 triệu tấn dầu thô/năm. Nhà máy Lọc dầu Dung Quất khi đi vào hoạt động có công suất chế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm, cung cấp khoảng 40% nhu cầu trong nước về xăng dầu.

Như vậy, chúng ta vẫn còn một lượng lớn dầu thô để xuất khẩu. Với công nghệ chế biến sâu, nhà máy sẽ đưa ra các sản phẩm giá trị cao như: khí hóa lỏng (LPG), xăng (A90, A92 và A95), dầu hỏa, diesel (DO), dầu đốt lò (FO)… Trong đó, 2 sản phẩm xăng và diesel chiếm khoảng 80% tổng khối lượng sản phẩm của nhà máy, chủ yếu phục vụ nhu cầu thị trường trong nước.

- Hợp đồng gói thầu chính đã được ký kết, liệu có còn thách thức nào nữa không, thưa ông?

- Với những dự án lớn, quá trình đàm phán là rất khó khăn. Nhưng khi đàm phán xong thì thực hiện rất tốt. Trong hợp đồng cũng có các khoản cam kết ràng buộc: nếu nhà thầu làm chậm tiến độ thì sẽ bị phạt. Dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất có giá trị đầu tư rất lớn, không có nhà thầu nào dại gì làm chậm để chịu phạt.

Điều quan trọng hiện nay là việc thu xếp vốn cho dự án. Chính phủ đã có kế hoạch, về cơ bản sẽ dành một tỷ lệ thích đáng từ nguồn lãi dầu của PetroVietnam mà bấy lâu nay vẫn nộp vào ngân sách.

- Xin cảm ơn ông. 

BẢO MINH

Ông Phạm Quang Dự
Chậm 7 năm, vốn tăng thêm 1 tỷ USD

Theo dự kiến ban đầu, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất được hoàn thành, chạy thử nghiệm năm 2001, chính thức sản xuất sau đó một năm. Tuy nhiên, theo tiến độ dự kiến mới nhất thì dự án chỉ có thể hoàn thành vào năm 2008, bắt đầu sản xuất từ tháng 2-2009. Như vậy, thời gian hoàn thành dự án đã bị chậm 7 năm so với kế hoạch.
Tổng mức đầu tư của dự án ban đầu là 1,5 tỉ USD. Tuy nhiên, báo cáo mới nhất của Bộ Công nghiệp cho thấy, dự kiến tổng mức đầu tư bị vượt trội do phải bổ sung thêm các hạng mục công trình cần thiết để thay đổi thiết kế tổng thể nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm; khắc phục các phát sinh do điều tra, khảo sát địa chất không kỹ, như khắc phục “túi bùn”, “khoan cọc”; do trượt giá, biến động giá cả của sắt thép, tỉ giá USD/VND và các ngoại tệ khác; chế độ chính sách tiền lương thay đổi nên các nhà thầu đề nghị tăng giá hợp đồng. Với việc hợp đồng EPC số 1+4, gói thầu chính dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất được ký kết giữa tháng 5-2005 vừa qua, với trị giá hợp đồng vào khoảng 1,564 tỷ USD, tổng mức đầu tư cho dự án đã tăng lên 2,5 tỷ USD.
Theo đánh giá của đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, do tiến độ thực hiện chậm, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã không thể đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước theo kế hoạch 5 năm 2000-2005. Tỷ lệ thu hồi vốn nội tại (IRR) theo tính toán lúc trình dự án có thể đạt tối thiểu 15%, thì nay do tổng mức đầu tư tăng so với dự kiến ban đầu nên có thể chỉ còn 6%.

HÀM YÊN

Tin cùng chuyên mục