
Bằng chiếc ghe mui trần, không la bàn, hành trang của 6 chiến sĩ đầu tiên Đoàn tàu không số ở xã Phước Hải huyện Long Đất (nay là huyện Đất Đỏ) tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là 6 hộp sữa bò, 12 cheo lưới, 6 bộ quần áo, 6 giấy thế thân, đã bí mật vượt biển ra Bắc tiếp nhận vũ khí.

“Gia tài” của thuyền trưởng Nguyễn Sơn không gì quý bằng những tấm huy chương thấm máu đồng đội.
Ngày ra đi
Năm 1961, cuộc chiến đấu của nhân dân ta ở giai đoạn ác liệt. Trong khi việc vận chuyển vũ khí bằng đường bộ gặp nhiều trở ngại do địch bắn phá, lộ bí mật, ngày 23-10-1961, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã quyết định thành lập Đoàn 759 với tên gọi Đoàn tàu không số có nhiệm vụ bí mật vận chuyển vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.
Cùng với các tỉnh Cà Mau, Bến Tre, hướng vượt biển ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do chiến sĩ Nguyễn Sơn (lúc đó tên là Nguyễn Văn Chiến) chỉ huy và 5 chiến sĩ khác là Thôi Văn Nam, Trần Văn Phủ, Nguyễn Văn Thanh, Võ An Ninh, Lê Hà ở đơn vị 555 - một đơn vị đặc biệt có mật hiệu CR, thành lập một đoàn vượt biển ra Bắc.
Lúc đó Nguyễn Sơn 21 tuổi là đảng viên, 5 chiến sĩ khác có 2 đoàn viên và 3 quần chúng. Ngày 17-2-1962, từ cửa biển Lộc An, 6 chiến sĩ đã bí mật xuống ghe vượt biển ra Bắc, đem theo 6 hộp sữa bò, 6 bộ quần áo, 12 cheo lưới, 6 giấy thế thân (giấy căn cước) và tình yêu Tổ quốc vô hạn.
Suốt 5 ngày đêm vượt qua bao sóng gió mà không ai nản lòng. Ai cũng nghĩ, phải quyết tâm ra Bắc tiếp nhận vũ khí, đó là danh dự, là lời thề thiêng liêng của người lính. Sáng 5-3-1962, khi ghe đến vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa) thì bị hỏng máy. Đúng lúc ấy, địch phát hiện, chúng bắt giam cả 6 người. Mọi người dặn dò nhau là không thể để lộ bí mật dù có phải hy sinh.
Biết không khai thác được thông tin gì từ “mấy thằng ngư dân đánh cá”, bọn địch đã thả 6 chiến sĩ. Đó là một buổi sáng, cánh cửa sắt mở. Một tên địch đứng trước cửa hét: “Cho chúng mày đi”. Sơn và 5 chiến sĩ chạy ra cửa nhà tù. Trấn tĩnh giây lát, Sơn và đồng đội tìm đường ra vịnh Cam Ranh tìm ghe để tiếp tục hành trình. Suốt 3 tháng trong tù đói khổ thiếu ánh sáng nhưng không làm ý chí của các chiến sĩ lung lay, Sơn và đồng đội của anh bước vào cuộc chiến đấu mới.
Rời vịnh Cam Ranh, trên trời nắng chang chang, dưới biển nước bốc hơi nóng. Một bao gạo, 1 lu nước, 2 can dầu, ít rau nhặt từ chợ, các anh xuống ghe tiếp tục hành trình. Vừa đi vừa bí mật tiếp cận dò la tin tức, móc nối với tổ chức. Nước uống dù tiết kiệm lắm cũng chỉ được 2 tuần. Không thể chết vì khát, các chiến sĩ đã uống nước tiểu của mình. Nhưng rồi nước tiểu cũng không có nữa vì có gì uống đâu. Mọi người chuyển qua nấu nước biển để lấy hơi nước ngọt. Họ dùng cái nồi nấu cơm, đổ nước biển vào trong đó, úp vung lên và nấu. Hơi nước ngọt ngưng tụ trên nắp vung. Cả 6 người cùng liếm nắp vung nhưng không hết lượt. Không phải là thừa nước, mà là nhường nhịn nhau vì thương nhau quá. Anh em nhìn nhau trào nước mắt. Càng trào nước mắt, càng quyết tâm vượt biển đến hơi thở cuối cùng.
Sau 73 ngày lênh đênh trên biển, 6 chiến sĩ lạc vào đảo Hải Nam Trung Quốc, được người dân cho ăn, uống và quần áo mặc. Tại đây các chiến sĩ đã may mắn được các đồng hương đưa đến gặp đồng chí Phạm Hùng. Đồng chí Phạm Hùng hỏi: “Các đồng chí từ đâu tới, cứ nói thật”. Anh em ai cũng mừng, vì biết là người của mình mới xưng là đồng chí.
Nguyễn Sơn báo cáo: “Chúng tôi là quân giải phóng được cử ra Bắc để tiếp nhận vũ khí”. Đợi 2 ngày sau khi làm xong các thủ tục cần thiết và hộ chiếu, 6 chiến sĩ được đồng chí Phạm Hùng bố trí đưa về Hà Nội bằng xe lửa.
Sau hơn 1 năm xa quê hương, 6 anh em trên chiếc ghe từ cửa biển Lộc An năm nào đã có dịp trở về miền Nam thân thương. Đó là chuyến tàu không số chở vũ khí từ Hải Phòng cập bến Lộc An ngày 3-10-1963.
Nói về sự gian lao vất vả trong những ngày vượt biển, ông Nguyễn Sơn nói: “Đó là cuộc vượt biển bằng máu”.
“Gia tài” đặc biệt
Ông Nguyễn Sơn bê hòm đựng huân huy chương các loại cho chúng tôi xem với niềm tự hào: “Trên mỗi tấm huy chương này đều có máu của đồng đội. Với tôi, ký ức chiến tranh không bao giờ quên, còn những tấm huy chương là niềm tự hào vô bờ bến”.
Trong 1.789 chuyến tàu chở vũ khí bí mật từ Bắc vào chi viện cho chiến trường miền Nam, ông Nguyễn Sơn là thuyền trưởng lớp đầu tiên với 6 lần cùng đồng đội vượt biển. Ông bảo: “Vinh dự lớn nhất đời bộ đội của tôi là được cống hiến sức trẻ của mình cho Tổ quốc. Vinh dự thứ hai là thuyền trưởng chuyến tàu chở Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó bí danh là Sáu Dân, Bí thư Khu ủy khu 9, từ cảng Duy Linh (đảo Hải Nam Trung Quốc) vào Cà Mau tháng 8-1973 và chở Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ Cà Mau đến Hậu Thủy (Hải Nam, Trung Quốc) vào tháng 11-1973”.
Sau chuyến tàu không số cuối cùng cập cảng Đà Nẵng, chuyển vũ khí vào kho bí mật, ông lại tiếp tục chỉ huy đoàn tàu hành trình tới cảng Vũng Tàu sáng 29-4-1975.
Vừa cập cảng, mọi người ôm nhau trào nước mắt khi tiếng cô phát thanh viên trên loa: “Tỉnh lỵ Vũng Tàu Côn Đảo đã được giải phóng”.
Chen lẫn niềm vui ngày đại thắng, khóe mắt ông cay cay bởi những đồng đội đã hy sinh. Nhưng vẫn còn đó là tình yêu Tổ quốc và tình đồng đội vẹn nguyên trong trái tim ông.
Mai Thắng