
Từ một người “tay không lập nghiệp” với nghề bạc mỹ nghệ, cụ Bùi Hưng Gia trở thành nhà tư sản dân tộc nổi tiếng trước Cách mạng Tháng 8-1945. Đáng nói hơn, cụ là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên, rồi Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội suốt 4 khóa liền. Tuy không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam song cụ là tấm gương mẫu mực hết lòng vì dân, vì Đảng, vì sự nghiệp cách mạng…
Chữ “Tín” tạo nên cơ nghiệp

Ông Bùi Công Bội, con trai thứ của cụ Bùi Hưng Gia kể: “Bố tôi học nghề thợ bạc ở làng Đồng Sâm, Thái Bình. Học nghề truyền thống nhưng bố tôi không chỉ làm theo các mẫu xưa mà luôn cố gắng để lại trên mỗi sản phẩm dấu ấn của riêng mình”.
Bên cạnh tay nghề khéo léo và óc thẩm mỹ, một bí quyết quan trọng khác giúp người thợ trẻ Bùi Hưng Gia từng bước gặt hái thành công rồi mở được cửa hiệu Sư Tử Bạc (Au Lion D’argent) chính là chữ Tín. Ngay cả khi nhà có nhiều người làm cụ Gia vẫn thường tự tay ngả vàng, ngả bạc. Khâu chuẩn bị nguyên liệu này cực kỳ quan trọng: nó đảm bảo chính xác tỷ lệ vàng, bạc trong sản phẩm và tạo cho sản phẩm có màu sắc, độ bóng đẹp như ý muốn.
Cụ không bao giờ cho phép “ăn bớt” vàng, bạc để kiếm thêm lãi. Những năm đó, hàng của gia đình cụ Gia xuất khẩu sang Pháp từng lô lớn và cụ thường tự mình kiểm tra rất cẩn thận. Là con trưởng trong gia đình, cụ Gia hướng nghiệp cho các em trai theo nghề và họ cũng đều thành đạt. Một trong số đó là nhà sưu tập mỹ thuật nổi tiếng Bùi Đức Minh, em trai cụ Gia.
Giác ngộ cách mạng từ thiện tâm
Giữa lúc công việc kinh doanh đang “thuận buồm xuôi gió” thì cụ Gia chuyển sang nghiên cứu Phật

giáo (có lẽ cũng vì lý do này mà cửa hiệu Sư Tử Bạc được đổi tên thành Di Đà), làm nhiều việc thiện. Theo bà con hàng xóm, cho đến giờ, thi thoảng gia đình cụ Gia vẫn được đón tiếp những người khách rất đặc biệt từ tận Thanh Hóa, Thái Bình... đến xin thắp cho cụ một nén hương.
Đó là con cháu của những người đã được cụ cứu khỏi nạn đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945. Đận ấy, suốt mấy tháng liền, ngày nào gia đình cụ Gia cũng nấu cháo đổ vào chum và nắm thật nhiều nắm cơm nhỏ, để ngay trước cửa. Ở quê nhà tại xã Văn Yên (thị xã Hà Đông bây giờ), cụ Gia cũng tổ chức phát cơm, phát cháo cứu đói. Và con cháu của những người chưa bao giờ biết mặt cụ và cụ cũng không hề quen biết ấy đã ghi lòng tạc dạ...
Có lẽ chính bản tính hướng thiện đã khiến nhà tư sản dân tộc Bùi Hưng Gia giác ngộ và trở thành cơ sở của Đảng, của cách mạng. Năm 1945, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, trong Tuần lễ Vàng cụ đóng góp gần 1.000 lạng vàng. Kháng chiến bùng nổ năm 1947, cụ Gia nhận nhiệm vụ ở lại thành phố làm cơ sở cách mạng.
Bàn thờ Phật trong tư gia ở số nhà 54 - 56 phố Hàng Trống của cụ trở thành nơi cất giữ tài liệu cách mạng. Cụ thường ngồi ở đó đọc sách, bên cạnh là quả mìn để khi cần sẽ sẵn sàng nổ, quyết không để lại dấu vết gì cho kẻ thù có thể lần theo. Cụ từng bị bắt, bị tra tấn nhưng không hề hé răng khai bất cứ điều gì. Để có đường thoát hiểm cho các cán bộ Đảng thườøng sinh hoạt, hội họp tại nhà, cụ mua thêm căn nhà phía sau, thiết kế đường đi bí mật thông ra phố Lý Quốc Sư. Đã có lần, hai cán bộ của ta thoát hiểm trong gang tấc nhờ lối đi này.
“Biết sống vì mọi người, cả đời thanh thản”
Sau Cách mạng Tháng Tám, cụ Bùi Hưng Gia là một trong những đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên rồi sau đó là Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội suốt 4 khóa liền. Còn nhớ sau giải phóng Thủ đô (10-10-1954), cụ Bùi Hưng Gia không chút ngần ngại đem cả sản nghiệp vào “công tư hợp doanh”. Không lâu sau đó cụ nghỉ hẳn kinh doanh, tham gia hoạt động trong các tổ chức đoàn thể, Mặt trận và Quốc hội. Ghi nhận những đóng góp của nhà tư sản dân tộc yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ân cần đến chúc Tết gia đình cụ vào Xuân Canh Tý (1960).
Sau này, suốt một thời kỳ dài đất nước khó khăn, thiếu thốn, vợ con không khỏi có những lúc “tâm tư”, cụ Gia thường nhỏ nhẹ bảo: “Xưa bố đã làm nên từ hai bàn tay trắng, nay các con cũng có thể làm được như vậy. Bố chỉ có kinh nghiệm này muốn dặn lại các con: Điều gì chỉ có lợi cho bản thân mình thì chớ nên làm. Hãy biết sống vì mọi người thì cả đời thanh thản”.
ANH THƯ
Bài 2: Tấm lòng bác Năm!
Với hơn 100 tuổi đời, ông đã sống trọn vẹn một tấm lòng kiên trung với Đảng, trọn vẹn một nghĩa tình sâu nặng với dân. Người đảng viên thế hệ đầu tiên ấy, đã để lại một nghĩa cử cao đẹp, đầy tính nhân văn.