
Không phải tự nhiên mà cây bút Kevin Peraino đặt tựa bài viết là “The End of a Dream” (Sự kết thúc của một giấc mơ, Newsweek 22-8-2005). Trong nhiều thập niên, Israel (với tinh thần Do Thái phục quốc) luôn ấp ủ tham vọng xây dựng một nhà nước Đại Do Thái cho một quốc gia Đại Israel bằng cách định cư vĩnh viễn tại các vùng chiếm đóng ở Gaza và Bờ Tây. Tham vọng bất thành. Gaza và Bờ Tây bắt đầu được trả lại cho người Palestine, từ ngày 15-8-2005, sau ròng rã gần bốn thập niên chiếm đóng trong thù hằn và máu đổ.…
- Một kế sách ổn định
Thủ tướng Israel Ariel Sharon đã quyết định đơn phương thực hiện chương trình tái định cư cho khoảng 8.500 người Do Thái tại Gaza và 600 người tại Bờ Tây. Đối với những người theo chủ nghĩa Do Thái phục quốc, đây là thời khắc đánh dấu một thất bại lịch sử.

Những người Do Thái đầu tiên đến định cư tại các vùng đất thuộc Palestine cách đây nửa thế kỷ.
Israel từng rút khỏi vùng chiếm đóng từ cuộc chiến sáu ngày 1967 (đặc biệt năm 1982, khi họ phá bỏ khu định cư Yamit) nhưng chưa bao giờ Israel thật sự rút toàn bộ dân Do Thái khỏi vùng chiếm đóng như lần này (Chính phủ Sharon chi 1 tỉ USD cho chương trình tái định cư). Dù 57% người Israel ủng hộ kế hoạch triệt thoái toàn diện khỏi Gaza và Bờ Tây nhưng chương trình tái định cư đang làm xáo trộn không ít đời sống nhiều hộ dân vốn hưởng thụ nền kinh tế phát triển trung bình 4%/năm.
Nhiều khu định cư thật ra đã phát triển thành khu công nghiệp qui mô chứ không đơn thuần là cộng đồng dân cư.
Chemi Peres – con trai đương kim Phó Thủ tướng Shimon Peres – là một trong những người tiên phong trong việc hiện đại hóa khu định cư thuộc thành phố Herzliya (đặt theo tên Theodor Herzl, cha đẻ chủ nghĩa Do Thái phục quốc). Herzliya là nơi tập trung của hầu hết giới đầu tư kỹ thuật cao Israel. Tuy nhiên, về lâu dài, việc rút hoàn toàn khỏi vùng chiếm đóng tại Gaza và Bờ Tây mới thật sự là kế sách ổn định (dân số Arab ngày càng phát triển và người Do Thái ngày càng bị co cụm với mối lo khủng bố thường trực).
Năm 1917, Bản tuyên ngôn Balfour nhìn nhận Palestine là quê hương chính thống của dân Do Thái. Sự công nhận này làm bùng nổ làn sóng phản đối ở các nước Arab láng giềng. Năm 1920, người Anh đến Palestine với vai trò bảo hộ nhằm ngăn chặn nguy cơ cuộc chiến bùng lên giữa người Arab và Do Thái. Suốt thập niên 1930, dân Do Thái ở châu Âu chạy sang Palestine ngày càng nhiều để lánh Đức quốc xã. Lo sợ luồng nhập cư mới khiến Arab sẽ càng giận dữ, Anh tìm cách ngăn số dân Do Thái đổ vào Palestine nhưng không thành công. Người có công lớn nhất trong việc đưa dân Do Thái châu Âu thoát khỏi nạn diệt chủng Đức quốc xã là David Ben-Gurion.
Năm 1947, căng thẳng giữa người Arab và người Do Thái ngày càng trầm trọng và cuối cùng Liên hợp quốc can thiệp bằng cách đưa ra đề nghị tách thành hai lãnh thổ riêng biệt. Tuy nhiên, cả Arab và Do Thái đều không chấp thuận. Ngày 14-5-1948, khi thời hạn bảo hộ của Anh ở Palestine chấm dứt, David Ben-Gurion cảm thấy thời điểm đã chín muồi và ông tuyên bố thành lập nước cộng hòa độc lập riêng cho dân Do Thái. Israel ra đời, với Tổng thống đầu tiên là Chaim Weizmann và Thủ tướng là Ben-Gurion.
Năm 1950, Israel tung ra đạo luật, nói rằng bất kỳ người Do Thái ở ngóc ngách nào trên thế giới cũng có quyền nhập cư vào Israel. Do đó, dân số Israel đến cuối thập niên 1950 đã tăng lên gấp đôi và lực lượng quân sự Israel ngày càng mạnh. Thập niên 1960 tiếp tục chứng kiến nhiều cuộc xung đột giữa Israel với Syria và Jordan, khi Israel thực hiện kế hoạch lấy nước từ sông Jordan để tưới tiêu cho vùng Negev. Ai Cập can thiệp. Cuộc chiến sáu ngày bùng nổ, từ ngày 5-6-1967.
- Nguồn gốc Do Thái phục quốc
Tuy Do Thái phục quốc là tổ chức chính trị hình thành vào thế kỷ 19 nhưng phong trào này từng nhen nhúm tận thế kỷ thứ 6 TCN, khi người Do Thái bị Babylon đánh bại và phân tán. Do Thái phục quốc thời hiện đại bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ 18 khi xuất hiện phong trào Haskalah (Khai sáng) do triết gia Đức gốc Do Thái Moses Mendelssohn khởi xướng. Một số sự kiện chính trị lớn vào thế kỷ 18 khiến Do Thái phục quốc nhanh chóng phát triển.
Sự kiện quan trọng đầu tiên là phong trào “chống Semitic” (từ semitic thoạt đầu áp dụng cho tất cả hậu duệ của Shem – người con cả của tổ phụ Noah trong Kinh Thánh; sau đó, từ này chỉ đến một nhóm người Tây Nam châu Á, trong đó có Do Thái và Arab; và cụm từ “anti-semitism” – chống người Semitic – hình thành năm 1879, mang nghĩa “sự thù hằn chỉ nhắm vào người Do Thái”). Thái độ thù hằn trên nảy sinh từ lý thuyết lần đầu tiên được phát triển ở Đức vào giữa thế kỷ 19, khi những người tự nhận gốc Aryan cho rằng mình có giá trị cao hơn người Semitic.
Hơn nữa, từ thế kỷ thứ 4, người Do Thái bị xem là những kẻ giết Chúa Jesus Christ. Tuy bị nhân chủng học bác bỏ nhưng anti-Semitism vẫn được ca ngợi từ các bài viết của triết gia xã hội học Pháp Comte Joseph Arthur de Gobineau và triết học-kinh tế gia Đức Karl Duhring…
Sự kiện quan trọng thứ hai là những cuộc thảm sát người Do Thái tại Nga thời Sa hoàng, cũng xuất phát từ phong trào anti-Semitism. Năm 1896, nhà báo Hungary gốc Do Thái Theodor Herzl tung ra quyển The Jewish State, phân tích nguyên nhân gây ra anti-Semitism và kêu gọi thành lập một nước riêng cho dân Do Thái. Năm 1897, Herzl tổ chức Đại hội Do Thái phục quốc đầu tiên tại Basel (Thụy Sĩ) và sau đó thành lập Tổ chức Do Thái phục quốc thế giới…
Nhắc lại vài chi tiết trên để có thể thấy quyết định triệt thoái toàn diện khỏi Gaza và Bờ Tây thật sự là sự kiện lịch sử đối với hòa bình Trung Đông. Như nhiều phân tích chính trị, nguyên nhân chính khiến Thủ tướng Ariel Sharon chấp nhận “hiện thực hóa” chương trình đổi đất lấy hòa bình vẫn là cục diện an ninh. Đây là lần đầu tiên Israel gián tiếp thừa nhận sự hiệu quả của bom khủng bố, như ý kiến nhận định của một số chính khách Israel. Vấn đề an ninh bất ổn còn đẩy nhanh tỉ lệ chênh lệch dân số giữa người Do Thái và Arab.
Dân số người Do Thái của nước Israel tăng ở tỉ lệ trung bình 1,4%/năm (nếu tính cả hàng ngàn di dân Do Thái trở về Israel mỗi năm, trong đó có 14.200 người năm 2004). Trong cùng thời gian, cũng có khoảng 15.000 người Do Thái rời bỏ Israel. Thế hệ trẻ và có học thức là nhóm đối tượng có khuynh hướng rời khỏi đất nước nhiều nhất. Và vấn đề không chỉ là tình trạng an ninh hoặc chính trị mà còn nạn thất nghiệp và lạm phát.
Một cách tổng quát, tinh thần chủ nghĩa Do Thái phục quốc mỗi lúc yếu dần, trong khi sự kiên trì Palestine trong cuộc chiến giành đất không hề suy giảm cuối cùng đã khiến Sharon nhận thức rằng việc trả đất để đổi hòa bình là một giải pháp tối thượng để tháo gỡ tâm trạng hằn thù kéo dài hơn nửa thế kỷ. Xét ở một góc độ hẹp, chủ trương đơn phương rút khỏi Gaza và Bờ Tây của Sharon, dù ít nhiều bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan, vẫn có thể được xem là hành động có giá trị lịch sử và là một cột mốc rất quan trọng cho chuỗi quá trình xây dựng nền móng cho hòa bình Trung Đông.
LÊ THẢO CHI