Kiểm soát tốt rủi ro để vững vàng tăng trưởng

Trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 (VEPF) được tổ chức ngày 16-12 tại Hà Nội, các chuyên gia đã sôi nổi bàn thảo về giải pháp tài chính - tín dụng để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026-2030. Mức tăng trưởng này là nền tảng quan trọng để Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tiến tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045.

Theo ước tính được đa số chuyên gia trong nước và quốc tế tán thành, để đạt mục tiêu đề ra, Việt Nam cần một lượng vốn khổng lồ, dự kiến khoảng 1.400 tỷ USD (280 tỷ USD/năm) trong 5 năm tới. Trong khi đó, nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, với quy mô tín dụng đã ở mức 134% GDP. Các kênh huy động vốn khác chưa phát triển tương xứng: thị trường chứng khoán (tính đến 30-11-2025) mới đạt khoảng 81,9% GDP, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 100% GDP; thị trường trái phiếu hiện mới đạt khoảng 23,1% GDP so với mục tiêu 47%...

Trong cuộc làm việc với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cuối tháng 11 vừa qua, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, ông Felipe Jaramillo, cảnh báo, việc mở rộng tín dụng quá nhanh, trong khi chất lượng tài sản và dự phòng của hệ thống suy giảm, có thể gây rủi ro mất ổn định kinh tế vĩ mô và hệ lụy dài hạn.

Khuyến nghị của vị lãnh đạo WB khá tương đồng với ý kiến của nhiều chuyên gia trong nước, đó là áp lực nợ xấu, thanh khoản và chi phí vốn có thể quay trở lại nếu tín dụng tiếp tục tăng nhanh trong khi thị trường vốn phát triển chưa tương xứng. Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung nhiều hơn vào sản xuất - kinh doanh thay vì các lĩnh vực mang tính đầu cơ là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm tăng trưởng bền vững.

Chia sẻ từ góc độ quốc tế, đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế lưu ý, tăng trưởng tín dụng nhanh trong quá khứ thường đi kèm với nợ xấu và áp lực lên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng, nhất là trong bối cảnh các ngân hàng phải tiến tới tuân thủ các chuẩn mực quốc tế như Basel III. Mặt khác, nếu đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số nhưng lạm phát cao thì con số tăng trưởng đó sẽ không còn nhiều ý nghĩa và người dân chắc chắn không được thụ hưởng trọn vẹn thành quả tăng trưởng.

Để hóa giải những nỗi lo hoàn toàn có cơ sở đó, kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng, yếu tố quan trọng không chỉ là huy động cho đủ vốn, mà phải phân bổ đúng chỗ, sử dụng hiệu quả và tạo giá trị gia tăng cao nhất có thể theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tập trung cho hạ tầng chiến lược, hạ tầng liên vùng, hạ tầng số, năng lượng và chuyển đổi xanh… Hiệu quả sử dụng vốn phải trở thành tiêu chí xuyên suốt trong cả đầu tư công và đầu tư tư nhân.

Bên cạnh chính sách tài khóa, thị trường vốn cần được phát triển, trở thành trụ cột huy động nguồn lực trung và dài hạn, từng bước giảm sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Muốn vậy, cần phát triển đồng bộ thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và các dòng vốn quốc tế, tạo nên một cấu trúc vốn cân bằng, cạnh tranh và hỗ trợ lẫn nhau; đồng thời, cần phát triển mạnh các định chế cho vay không nhận tiền gửi như công ty cho thuê tài chính, tài chính tiêu dùng…

Nếu như việc phối hợp chặt chẽ, thực chất giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ được xác định là yếu tố then chốt để vừa giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng cao thì cải cách thể chế và xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, ổn định được xem là giải pháp nền tảng, có tính quyết định để giữ chân các nguồn lực tài chính và thu hút các nhà đầu tư có chiến lược dài hạn đến Việt Nam và “bén rễ xanh cây”.

Tin cùng chuyên mục