Cơn bão lốc tại Wall Street

Kỳ cuối: Niềm tin bị đánh cắp

Kỳ cuối: Niềm tin bị đánh cắp
  • Dòng chảy của đồng tiền
Nguyên CEO ImClone, Samuel Waksal (đi giữa hai cảnh sát).

Nguyên CEO ImClone, Samuel Waksal (đi giữa hai cảnh sát).

Như Enron, WorldCom cũng có những đường dây móc nối đến Nhà Trắng. Cách đây hai năm, WorldCom còn trúng hợp đồng 450 triệu USD với Lầu Năm Góc. Trong một thập niên qua, WorldCom bơm hơn 4 triệu USD cho các chiến dịch tranh cử của Đảng Cộng hòa lẫn Dân chủ. Trong mùa tranh cử Quốc hội tháng 11-2002, WorldCom đã góp hơn 1 triệu USD cho ứng cử viên cả hai đảng. Dân biểu Charles W. Pickering Jr (Cộng hòa) – người đại diện khu vực Clinton, nơi có đại bản doanh WorldCom – là chính khách nhận nhiều nhất.

Pickering nhận tổng cộng 57.500 USD kể từ 1991, trong đó có 6.000 USD nhận từ tay (cựu) tổng giám đốc điều hành WorldCom Bernard Ebbers. Người kế tiếp là thượng nghị sĩ Ernest F. Hollings (Dân chủ) với tổng cộng 31.166 USD. 

Dùng ảnh hưởng và tiền, WorldCom từng tung chiến dịch đòi hủy bỏ Đạo luật Phát triển băng rộng và tự do Internet 2001, do dự luật này cho phép các công ty viễn thông được quyền tự do cạnh tranh tại khu vực “Baby Bell”, nơi kiếm ăn béo bở lâu nay của những công ty điện thoại đường dài AT&T Corp, Sprint Corp và WorldCom. Chủ tịch phe thiểu số Thượng viện Trent Lott (Cộng hòa) là người đứng thứ ba trong số chính khách nhận tiền nhiều nhất của WorldCom, với 30.500 USD. 

Trước vụ WorldCom và sau vụ Enron, hàng loạt công ty Mỹ đã bị buộc tội đánh lừa cổ đông và ngân hàng nhằm kéo dài thời gian công bố phá sản, từ Tyco, ImClone đến Adelphia. WorldCom nợ 2,65 tỉ USD và vào thời điểm trước khi vụ việc đổ bể công ty này còn thương lượng vay 5 tỉ USD. Trong số ngân hàng trở thành nạn nhân của WorldCom, có Ngân hàng Hoa Kỳ (Bank of America), J. P. Morgan Chase, Citigroup, FleetBoston Financial, Mellon Financial, Bank One, Wells Fargo… 

Theo điều tra của Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (SEC), sự gian dối của WorldCom được “điều khiển và nhất trí” từ những viên chức hàng đầu nhằm duy trì doanh thu theo tiêu chuẩn Wall Street để có thể hỗ trợ giá cổ phiếu WorldCom trong thị trường chứng khoán. Người sáng lập kiêm tổng giám đốc điều hành WorldCom Bernard Ebbers đã đánh bài chuồn sau khi tuyên bố từ chức vào cuối tháng 4-2002. 

Liên quan trực tiếp vụ WorldCom là công ty kiểm toán Arthur Andersen (cũng là nơi chịu trách nhiệm theo dõi và công bố tình hình kinh doanh công ty Enron). Câu hỏi lớn nhất đặt ra cho Andersen là tại sao công ty này không biết gì về nguy cơ phá sản của WorldCom. Các nhà điều tra tin rằng WorldCom và Andersen đã cùng dàn xếp che giấu những khoản lỗ kinh doanh. 
Với nền kinh tế dựa vào trục trung tâm của thị trường chứng khoán như Mỹ, nơi người ta kinh doanh bằng niềm tin, vụ WorldCom cho thấy có nhiều tổn thất hơn, sau những tổn thất kinh tế. 

Một trong những tổn thất lớn nhất là sự đánh cắp niềm tin, khi người ta từng tin cậy dựa vào các công ty luật, các ngân hàng đầu tư chịu trách nhiệm cố vấn, các công ty kiểm toán (không trung thực), các ông tổng giám đốc điều hành (dối trá), các chuyên gia vận động hành lang và các chính khách. Chính những vụ quan hệ với giới doanh nghiệp mới là điểm cần nhấn mạnh.

Bản thân Bush – như tất cả chính khách Mỹ – cuối cùng đều gặp tình huống khó xử. Lấy ngay ví dụ quan hệ giữa Bush và nguyên Tổng giám đốc điều hành (CEO) Kenneth L. Lay của công ty sập tiệm Enron. Lay là bạn thân Bush nhiều năm và từng là chủ tịch Ủy ban tổ chức Hội nghị quốc gia Cộng hòa (điều phối chương trình vận động tranh cử của Đảng Cộng hòa). 

  • Kinh doanh và chính trường
NguyênCEO WorldCom, Bernard Ebbers.

NguyênCEO WorldCom, Bernard Ebbers.

Vấn đề quan trọng hơn trong mối quan hệ Washington-Wall Street là ảnh hưởng của nó lên các chính sách đối nội cũng như đối ngoại. Không thể kể hết những ví dụ cho thấy tác động của giới doanh nghiệp lên các chủ trương và chính sách trong chính trường Mỹ.

Trong nhiều chính sách, người ta không thấy lợi lộc gì cho dân chúng hay cộng đồng, trừ “bên A” và “bên B”. Hồi còn là thống đốc Texas, khi nước Mỹ đang tuyên chiến với đại gia thuốc lá Philip Morris, Bush không những từ chối tham gia chiến dịch nện Philip Morris mà còn đích thân nhận phong bì (quyên góp tài chính tranh cử) từ CEO Geoffrey Bible của công ty thuốc lá này. 

Karl Rove – một trong những cố vấn được sủng ái nhất của Bush – lúc đó là cầu nối giữa Bush và Geoffrey Bible. Từ năm 1991, Rove được Philip Morris trả 3.000 USD/tháng, với nhiệm vụ lượm lặt thông tin tình báo chính trị liên quan vụ kiện và số phận công ty.

Cần nói thêm, văn phòng Karl Rove & Company của Rove là trung tâm quyên góp tài chính cho Đảng Cộng hòa tại Texas… Làm sao có thể tiến hành cuộc chiến chống tham nhũng khi tham nhũng được hợp pháp hóa với sự tồn tại của cái trục “tiền mềm” mà toàn bộ hệ thống chính trị của Mỹ đang dựa vào?

Cần nhắc lại, có quá nhiều thành viên (nội các) từng hoạt động trong làng doanh nghiệp đồng thời có một mạng liên kết quen biết rộng và lâu dài.Phó Tổng thống Dick Cheney từng là viên chức điều hành cấp cao trong công ty Halliburton. Cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice từng có chân trong ban giám đốc Chevron Inc và Charles Schwab Co đồng thời có mặt trong Ủy ban quốc tế của tập đoàn ngân hàng J.P. Morgan & Co. 

Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld có chân trong G.D. Searle & Co, General Instrument Corp; và trước khi trở thành thành viên nội các George W. Bush, ông có mặt trong ban giám đốc hãng dược phẩm Gilead Sciences Inc. Chánh văn phòng Nhà trắng Andrew H. Card Jr. từng là phó chủ tịch phụ trách các vấn đề chính phủ của General Motors; chủ tịch và giám đốc điều hành Hiệp hội sản xuất xe hơi Hoa Kỳ… 

Danh sách còn dài: Bộ trưởng Ngân khố Paul O’Neill từng là CEO công ty Alcoa; Bộ trưởng Thương mại Donald Evans là CEO của công ty khí đốt-dầu hỏa Tom Brown Inc có văn phòng tại Texas; Thứ trưởng Giao thông Vận tải Michael Jackson từng là viên chức điều hành tại công ty quốc phòng Lockheed Martin…

Tất nhiên khi vào Nhà Trắng, những nhân vật kể trên – theo luật – đều phủ nhận các phi vụ làm ăn nhưng ai có thể cam đoan rằng những mối quan hệ sâu xa quá khứ với họ của giới doanh nghiệp sẽ không được phát huy? 

Trong thực tế, nạn tội phạm trong làng doanh nghiệp Mỹ không là chuyện mới. Tuần báo U.S. News & World Report từng kể ra vô số vụ tày đình trong làng đại công ty và nhấn mạnh rằng dù họ phạm tội nhưng vẫn trúng hợp đồng dài dài. Theo tài liệu trên, General Electric (GE) từng can tội hối lộ và bán sai giá (mispricing) đến độ Cơ quan quản lý hợp đồng quốc phòng Lầu Năm Góc đã tung ra 22 tội danh nhằm vào GE và thu hồi được 221,7 triệu USD.

Cách đây hai năm, United Technology Corp cũng vác chiếu ra tòa và chịu bồi thường 22,9 triệu USD sau khi bị cáo buộc tội tắc trách trong kỹ thuật của sản phẩm trực thăng Black Hawk. Động trời hơn, Cargill Inc – nhà thầu số 1 của Bộ Nông nghiệp Mỹ – từng chôn sống hai công nhân trong nhà máy mình khi một sự cố kỹ thuật máy móc xảy ra khiến lúa đang xay đổ xuống vùi lấp họ…

HOÀNG MINH

Tin cùng chuyên mục