
Có thể nói sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời của nhà trí thức yêu nước Hoàng Minh Giám là tấm lòng son đối với Tổ quốc, nhân dân là những hoạt động giáo dục, ngoại giao, văn hóa kiệt xuất với vị thế một trong những trợ lý gần gũi của Hồ Chủ tịch hơn một nửa thế kỷ 20.
Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở làng Vẽ, Từ Liêm, Hà Nội. Thân sinh Hoàng Minh Giám là Hoàng Tăng Bí, một nhân sĩ yêu nước, chống Pháp đỗ phó bảng nhưng từ quan ra lập Trường Đông kinh Nghĩa Thục đào tạo các chiến sĩ yêu nước sang học ở Nhật Bản để về giúp nước. Hoàng Minh Giám học Trường Quốc học rồi ra Hà Nội thi vào Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương.
Đến năm 1926 tốt nghiệp ra trường. Giáo sư Hoàng Minh Giám về Sài Gòn dạy tư thục, cộng tác với các báo yêu nước thời

Giáo sư Hoàng Minh Giám.
ấy như Tiếng Chuông Rè (La Cloche Fêlée) của nhà cách mạng yêu nước Nguyễn An Ninh, báo Nước An Nam (L’Annam) của luật sư Phan Văn Trường. Năm 1931, nhà cầm quyền Pháp biết được những hoạt động dạy học tư và viết báo của Hoàng Minh Giám là nguy hiểm đối với thuộc địa Pháp, họ không cho ông Giám được dạy học ở Sài Gòn. Hoàng Minh Giám ra Hà Nội cùng một số trí thức cách mạng tiến bộ như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Cao Luyện... lập Trường tư thục Thăng Long năm 1935, cùng với một số giáo sư có tiếng thời ấy như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Bùi Kỷ, Phan Anh, Nghiêm Xuân Yêm. Hoàng Minh Giám đảm đương nhiệm vụ hiệu trưởng vừa là giáo sư của trường.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ lâm thời do Hồ Chủ tịch đứng đầu thành lập, Hoàng Minh Giám được cử làm Đổng lý văn phòng, sau là Thứ trưởng Bộ Nội vụ mà Bộ trưởng là đồng chí Võ Nguyên Giáp và sau đó là cụ Huỳnh Thúc Kháng. Ít lâu sau ông được cử sang làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Ông đã là trợ lý của Hồ Chủ tịch trên mặt trận ngoại giao với việc ký hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, tham gia phái đoàn Việt Nam sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau cùng với Hồ Chủ tịch và Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Tháng 1-1946, trong cuộc bầu cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giáo sư Hoàng Minh Giám được bầu vào Quốc hội và tháng 3-1947. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông là nhà ngoại giao thiết lập những quan hệ quốc tế của nước Việt Nam ra thế giới. Dưới sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, Ngoại trưởng Hoàng Minh Giám đã thay mặt Chính phủ ta ký văn kiện công nhận Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thành lập (1949), thiết lập sứ quán ta tại Bắc Kinh với Ngoại trưởng Trung Quốc Chu ân Lai tháng 1-l950; rồi với Ngoại trưởng Liên Xô Vichensky cũng vào thời điểm ấy.
Tháng 8-1955, Bộ Văn hóa thành lập, ông là bộ trưởng đầu tiên. Trước đó ông là Hiệu trưởng Trường Đại học Nhân dân đầu tiên ở Hà Nội. Từ tháng 9-1955, ông cùng các thứ trưởng và nhiều cán bộ quản lý khác của Bộ Văn hóa xây dựng cơ sở thiết chế văn hóa từ trung ương đến địa phương đến các làng xã, bản mường ở miền Bắc và sau khi thống nhất là cả miền Nam. ông quan tâm đến toàn bộ tính đa dạng, đa phương của văn hóa, chỉ đạo công tác bảo tồn, bảo tàng di sản văn hóa dân tộc, thiết lập hệ thống các trường văn hóa nghệ thuật, tổ chức các cơ quan nghệ thuật âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, mỹ thuật..., chỉ đạo công tác xuất bản, phát hành trong toàn quốc.
Ông là người chủ, người bạn thân thiết trong các lần gặp gỡ với các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ nổi tiếng thế giới như hai vợ chồng nhà văn Louis Aragon, Elsa Triolet, cha con nhà văn François và Claude Mauriac, vợ chồng nhà báo Vaillant Couturier, nhà viết kịch nổi tiếng của Mỹ Arthur Miller, các nhà văn Trung Quốc Quách Mạt Nhược, Chu Dương v.v... những người đã ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Ông cũng rất tinh tế khi đàm luận về văn nghệ. Ông nhận xét về nghệ thuật khắc tượng, khen nhà thơ Huy Cận có bài thơ hay về hình tượng các vị La Hán chùa Tây Phương. Ông khen tranh của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân..., phân tích tính “hồn hậu tự nhiên” của tranh Làng Hồ đậm sắc thái dân gian. Ông cũng phân tích cái hay của nghệ thuật dân tộc trong chèo, tuồng, cải lương; thích thú những ca khúc mang đậm giai điệu và tâm hồn Việt Nam.
Thời kỳ ông làm ngoại giao tiếp xúc với các nhân vật, chính khách, tướng lĩnh các nước Pháp, Mỹ, Salan - vị tướng bốn sao của Pháp - đã viết trong hồi ký của mình những dòng cảm phục tài năng của Hoàng Minh Giám: “Ông Giám là một nhà ngoại giao có tài tranh luận ứng khẩu tại bàn hội nghị, là mẫu mực về sử dụng tiếng Pháp đạt đến mức tinh tế, thấu lý đạt tình, và đối phương chỉ có thể chấp nhận mà không thể phản bác nếu còn muốn thảo luận nghiêm túc” (báo Nhân Dân ngày 17-10-1993).
Thời ông làm Bộ trưởng Văn hóa, lời nhận xét của một đồng nghiệp đồng cấp là bà Bộ trưởng Văn hóa Liên Xô Ekaterina Fourtseva những năm 60 đã nêu lên tính cách độc đáo của Hoàng Minh Giám: “Tôi chưa từng gặp một vị bộ trưởng văn hóa nào tinh tế, lịch thiệp như ông Giám. Đó còn là kiểu mẫu của một nền văn hóa. ông rất uyên bác và với phong thái một con người có văn hóa cao, biểu hiện trong dáng điệu, lời nói” (Tư liệu Bộ Văn hóa).
Giáo sư Hoàng Minh Giám mất ngày 21-1-1995 tại Hà Nội.
Mai Thúc Luân