
Biết nhà văn Sao Mai tình nguyện rời bỏ Hà Nội đưa vợ con lên sinh sống trên vùng thâm sơn cùng cốc Thanh Sơn, Phú Thọ đã hơn bốn chục năm nay, nhưng đến bây giờ, khi nghe tin nhà văn đang bệnh trọng, tôi mới có dịp lên thăm vùng “chiến khu” của ông.

Nhà văn Sao Mai.
1. Xã Văn Luông, địa chỉ của nhà văn Sao Mai đây rồi. Hỏi một người ven đường, được chỉ ngay một ngôi nhà ba tầng cạnh Ủy ban Nhân dân xã, sơn màu tím hoa cà, giữa một khuôn viên tường rào bao quanh rộng chừng năm trăm mét vuông.
– Đó, nhà của anh Tân Khải Thắng, công nhân Xí nghiệp Chè Phú Đa, con trai thứ tư của nhà văn Sao Mai đó.
Tôi trầm trồ nhìn ngắm ngôi nhà bề thế, model, có vẻ như còn rất xa lạ với vùng đồi núi xa xôi này.
– Hơn chục người con của cụ Sao Mai, người nào cũng có nhà to thế - Dường như đọc thấy sự ngạc nhiên thái quá của tôi, người chỉ đường vội giải thích - Cụ Sao Mai đang ở với anh Hồng, con trai đầu của bà hai, nhà ở đằng kia...
Xe chúng tôi rẽ xuống con đường lát đá sỏi ven một sườn đồi xanh sum sê cam, hồng. Trước mặt là ngôi nhà hai tầng sơn màu nắng của anh Tân Khải Hồng, hiện là Chủ tịch Hội đồng Nhân dân xã Văn Luông. Thấy khách đến, bà Loan (vợ hai của nhà văn) cùng anh con trai cả Tân Khải Dũng, hiện đang là Hiệu phó Trường Phổ thông Trung học Minh Đại, dìu nhà văn Sao Mai ra tận ngõ đón đợi. Mặc dù vừa qua một trận ốm nặng, nhưng nhà văn đa tình này vẫn tỏ ra như mình còn là một văn nhân lãng tử của mấy chục năm về trước.

Bà Loan giới thiệu với khách về trang trại gia đình.
2. Bút danh Sao Mai vốn được tác giả chiết tự từ cái tên khai sinh Tân Khải Minh. (Tân = mới: Khải = khai mở; Minh = sáng. Ánh sáng ngày mới). Nhà văn Sao Mai thường tâm sự với bạn bè rằng bố ông vốn họ Nguyễn. Nhà nghèo phải lên thành phố Nam Định làm con nuôi một người Hoa họ Tân Khải. Nhờ văn chương, có một thời hai tiếng Sao Mai nổi như cồn. Ấy là khi ông cho in bốn truyện ngắn có những cái tên lạ: Uất, Căm, Đi, Đổi, mà theo nhà văn Tô Hoài còn nhớ: “Nguyễn Huy Tưởng đã chọn được từ Khu Ba gửi lên, in trong Tạp chí Văn Nghệ và khen rất hay”. Ấy là phóng sự “Trại di cư Pagốt Hải Phòng” viết về vùng đất ba trăm ngày thực hiện Hiệp định Giơnevơ năm 1954, được Giải thưởng Hội Nhà văn.
Nếu như nhà văn Nguyên Hồng chỉ vì yêu vùng đất Yên Thế của Đề Thám, chỉ vì sĩ khí, mà quyết để vợ con ở lại ấp Cầu Đen không đưa về Hà Nội, rồi mấy năm sau lại quyết không nhận lương của Hội Nhà văn, tự sống bằng hoa lợi do vợ con cày cuốc ở cái ấp Cầu Đen, cùng những đồng nhuận bút bèo bọt của mình, thì Sao Mai lại xa Hà Nội để lên vùng núi Thanh Sơn, Phú Thọ trong tình cảnh khác. Chung qui cũng chỉ vì cái sổ gạo. Ba vợ chồng, bảy đứa con, mà chỉ trông chờ độc một tiêu chuẩn mười ba ký rưỡi gạo độn mì, cộng bốn lạng rưỡi thịt, một ký đậu phụ, nửa lít nước mắm...
Năm 1964, Hà Nội cũng như cả miền Bắc đang gặp khó khăn về kinh tế, lại đang dốc sức chi viện cho miền Nam. Một phong trào vận động đưa dân đi khai hoang phát triển kinh tế miền núi được phát động khắp các quận, huyện. Trong cảnh ngộ cơm áo không đùa với khách thơ, nhà văn Sao Mai như người sắp chết đuối bỗng vớ được cọc. Ông bàn với hai bà vợ quyết chí đi khai hoang như những người tình nguyện...
3. Xã Văn Luông ngày ấy là xứ sở của người Mường. Từ Phố Vàng, huyện lỵ huyện Thanh Sơn, phải trèo đèo lội suối mất nửa ngày trời. Con đường mòn vào xã len lỏi giữa những đồi sim mua và rừng cây rậm rạp.
– Từ Hà Nội lên đây mà phải đi hết một tuần. Đến Văn Luông, chúng tôi như bị giam giữa rừng núi bịt bùng - Anh con trai cả Tân Khải Dũng nhớ lại - Ngày ấy tôi mới là một cậu bé mười hai tuổi nhưng đã phải làm những công việc của một người lớn. Những người dân địa phương đón dân Hà Nội với một tấm lòng của những người anh em ruột thịt. Họ dựng cho chúng tôi những ngôi nhà dông, tức là các ngôi nhà chôn cột xuống đất. Bảy anh em, lít nhít trứng gà trứng vịt, chị gái tôi mười bốn, em bé nhỏ nhất mới hơn một tuổi, lúc nào cũng thảng thốt như vừa qua một trận đại hồng thủy. Khi tiêu chuẩn lương thực của nhà nước cấp đã hết, nhiều gia đình lục tục bỏ về. Những đứa bạn học cùng lên với chúng tôi lần lượt theo bố mẹ về Hà Nội...
Chính những ngày cam go ấy, ba vợ chồng nhà văn Sao Mai, nhờ sự giúp đỡ đùm bọc của những người dân địa phương, của bạn bè văn chương Phú Thọ, đã trụ lại.
Chưa bao giờ bộ ba một ông hai bà lại tạo thành kiềng ba chân, thành “hòn núi cao” như lúc này. Họ lên rừng chặt nứa, đóng thành bè, ông biết bơi, ngồi giữa, sẵn sàng ứng cứu khi có bà nào ngã xuống suối. Hai bà thay nhau chống sào, đưa bè nứa xuôi dòng sông Bứa, vượt thác Mơn, thác Chàng về cập bến Phố Vàng để đổi lấy gạo, muối và dầu hỏa, vải vóc, giấy bút… Có lúc tên nhà văn Sao Mai ít thấy xuất hiện trên văn đàn, nhưng cái tên công dân Tân Khải Minh thì lại nổi như cồn trên các trang báo như một điển hình làm ăn giỏi của xã Văn Luông được cả huyện, cả tỉnh, rồi toàn quốc mời đi báo cáo trong các hội nghị, được đài báo đăng và truyền đi khắp nơi.
Thực tế đời sống thôi thúc ngòi bút. Bà hai vốn mê đắm văn chương. Bà cùng các con lợi dụng khe suối đầu nhà đắp một con đập tạo ra cái hồ nhỏ, mặt nước thả cá nuôi vịt, trên bờ trồng nhãn, vải và trồng mướp tạo sắc hoa vàng, rồi dựng một nhà sàn nhỏ đặt tên là “Vọng ngư lầu” để nhà văn ngồi sáng tác. Thế là bắt đầu một thời kỳ viết đầy cảm hứng và sung sức của văn sĩ đồng rừng. “Ba Vì núi mới”, “Làng Cao”, “Sông rừng”, “Tìm đất”, “Xanh mãi con đường”... của Sao Mai lần lượt ra đời trên vùng đất mới.
Nhà văn Sao Mai, kể từ năm làm quan văn nghệ tỉnh thì đến lúc này coi như chấm dứt thời kỳ bĩ cực, chuyển sang một chương mới. Mười hai người con của ông đều đã trưởng thành. Các anh con trai, anh từ chiến trường về, anh tốt nghiệp đại học, đều có công ăn việc làm ổn định, năm anh trở thành đảng viên, ba anh làm rể xứ Mường. Mười hai ngôi nhà lầu đồng loạt mọc lên. Xóm mới Sao Mai rộng hàng chục hécta nối dài khắp các triền đồi, thung lũng, tạo thành một tổ hợp trang trại với ao cá, ruộng lúa, vườn vải, hồng, cam chanh và trùng điệp những đồi chè...
– Bốn mươi mốt năm, viết được hơn mười cuốn sách và tạo lập được một dòng họ Tân Khải trên vùng đất Thanh Sơn này kể cũng là một điều kỳ lạ - Nhà văn Sao Mai nâng chén rượu mời khách đến thăm và chậm rãi thả từng chữ, rồi cười không thành tiếng tự thưởng cho những chiến công thầm lặng của mình.
Im lặng hồi lâu. Cả chủ và khách cùng thả hồn để thấm cái kỳ diệu của thời gian, của một cuộc đổi đời. Rồi nhà văn Sao Mai buông một câu, như chốt lại những điều đã bao lâu ông ngẫm ngợi:
– Văn mình người đời có thể quên, nhưng cái dòng họ Tân Khải từ Nam Định, từ Hà Nội lên lập nghiệp tháng 7 năm 1964 ấy, với mười hai người con và các cháu chắt nội ngoại, chắc chắn mãi mãi sẽ gắn bó và sinh sôi cùng vùng đất trù phú này...
Tôi chợt nhớ tên một tập truyện của nhà văn Sao Mai: “Xanh mãi con đường”. Cái tên có vẻ như rất mòn cũ ấy, nhưng chắc chắn nhà văn sẽ không thể nghĩ ra nếu đời ông không có một cuộc chuyển dời quyết liệt. Thanh Sơn, núi xanh, con đường xanh của một đời văn.
Hà Nội, tháng 6-2005
HOÀNG MINH TƯỜNG