Tái sinh từ rác

Sớm mai ở Hội An, nắng xiên qua mái tôn cũ, rắc vàng lên những khối sắt méo mó và hàng trăm vỏ lon cũ. Trong mùi sơn ngai ngái quyện mùi sắt rỉ, nghệ sĩ tái sinh rác Nguyễn Quốc Dân đi giữa đống phế liệu như giữa vườn ý tưởng, nhặt thứ người khác vứt bỏ để “tái sinh” chúng về đúng tên: vẻ đẹp.

Vòng đời của rác

Sau cánh cửa xưởng cũ kỹ là người đàn ông đã ngoài bốn mươi, nước da ngăm rám nắng, tóc khá dài, râu quai nón lởm chởm. Lúc nào người dân nơi đây cũng thấy anh với đôi tay chai sần dính đầy bụi sắt, áo luôn chi chít đường vá chỉ màu - thứ anh gọi đùa là “họa tiết lao động”. Đều đặn, sáng nào Dân cũng chạy chiếc xe máy cà tàng từ nhà ra bãi tập kết phế liệu, khi trở về, sau yên luôn buộc bó ống nhựa, túi vỏ lon, thỉnh thoảng là một ma-nơ-canh tróc sơn.

Ở Hội An, người ta quen gọi anh là “Dân điên”, “Dân rác”. Nghe thô nhưng là cách bà con thương mến gọi chàng trai “sinh ra” từ phế liệu, rồi lại gom phế liệu quê mình để biến thành nghệ thuật. Chủ nhân của những tên gọi đó vẫn cười xòa, vỗ ngực gọi bản thân mình là “rác sĩ” - người làm nghệ thuật bằng rác và không giấu vẻ tự hào.

Tuổi thơ của Dân bắt đầu từ những buổi theo mẹ men bờ sông Thu Bồn, lật từng bao rác, nhặt từng vỏ lon. Mùi sắt rỉ, mùi giấy ướt, mấy đồng tiền lẻ cộm túi... là những ký ức đầu tiên của anh về “nghề”. Dân kể, giọng đều như đọc lại một trang sách cũ: “Hồi nhỏ, tôi cùng mẹ đi nhặt ve chai, phế liệu. Tự nhiên điều đó khắc sâu trong tôi rằng khi lớn lên, nếu sáng tác phải dùng chính chất liệu ấy”. 2 năm sau khi học xong mỹ thuật, anh rời TPHCM quay về Hội An, trở lại với nguồn cảm hứng luôn sục sôi trong anh - phế liệu. Bởi với anh, “Người ta hay nói rác là đồ bỏ đi nhưng không có gì là bỏ đi. Không chỉ tôi tái sinh rác mà rác cũng đã tái sinh tôi”.

Xưởng của Dân nép ở rìa phường Hội An Tây, lối vào là con đường đất rộng chừng 2m, qua mấy xưởng cơ khí cũ rồi rẽ vào một khoảng sân lợp tôn chắp vá. Xưởng dựng bằng đồ đã qua sử dụng, cột bằng sắt cũ, cửa bằng khung nhôm lắp lại, đèn là chao bếp khoan lỗ… những thứ anh gọi là chất liệu “hiếm có khó tìm”.

Nếu ai mới đến, hẳn sẽ nghĩ đây là một bãi phế liệu thu nhỏ. Nhưng với Dân, đó là xưởng Tái sinh - tác phẩm lớn nhất đời anh. Một hình khối kiến trúc tái sinh dựng từ vật liệu cũ, thiết kế lấy Mặt Trời làm trung tâm sáng tạo. Ở giữa xưởng, một phần mái tôn được cắt mở để đón nắng. Mỗi ngày, ánh sáng di chuyển, thay phông cho các khối sắt, gỗ, nhựa. Ý niệm “làm một mái nhà cho mặt trời” nghe mộc mạc mà tạo nên trục tinh thần cho toàn bộ không gian. Anh bộc bạch: Tôi cần một không gian mỗi ngày được chơi, được sáng tác, được sống và thở cùng nghệ thuật. Có lẽ quan trọng nhất là đi tìm những giá trị có chiều sâu tinh thần.

“Tính sai - Tái sinh”

Dân gian vẫn râm ran “Người ta tính sai thì mình tái sinh”. Ở bãi phế liệu Hội An Tây, thứ người khác gọi là thừa, là bỏ, vào mắt anh vẫn “còn việc”. Anh nhặt về, rửa sạch, phân loại và tìm cho chúng hình hài mới. Mảnh sắt cong, khung gỗ gãy, đống chai nhựa đủ sắc đủ dạng và cả những trang phục đã nhuốm màu thời gian… vào tay anh đều có “phần việc” riêng. Cái đứng thành tượng, cái hóa nơi mũ, có cái còn cùng những người bạn phế liệu khác lắp ghép nên một mảng công trình lớn.

Bà Lê Thị Yên, hàng xóm làm phế liệu tại nơi anh sống, đã hình dung cách Dân làm việc: “Dân cứ đều đều lại đến, chọn kỹ lắm, bẩn mà thấy còn dùng được thì mang về rửa. Thứ tôi định quẳng, anh xin hết. Vài bữa sau quay lại anh đưa coi mớ bánh răng, nắp lon thành con cá treo tường. Nhìn thiệt đã con mắt”. Với phế liệu, Dân giữ nguyên cả vết xước, vệt rỉ như một cách giữ lại “dấu vân của thời gian”, đủ dòng đủ loại thứ phế liệu qua tay anh đều trở thành những chế tác độc nhất vô nhị.

Cái dũng của Dân là dám chọn con đường “không ai đi”. Con đường ấy không thuận thị trường. Dân không buôn bán tranh, không biến tác phẩm thành món hàng theo nghĩa chật hẹp. Anh xoay đời sống quanh nghệ thuật, rồi tách nhánh mưu sinh qua những công việc liên đới như tham mưu, thiết kế, nhận diện thương hiệu.

Dân chậm rãi: “Tôi gom mọi việc về nghệ thuật rồi tách ra. Cái nào cho mình, cái nào cho cộng đồng, cái nào mang tính ứng dụng”. Không phải anh khước từ tiền, anh chỉ từ chối để tiền định nghĩa nghệ thuật của mình: Tôi không giỏi buôn bán. Tôi không buôn bán tranh, cũng không thương mại hóa nghệ thuật. Tôi chọn con đường không giỏi đó để yên tâm làm việc mình thích... Nhờ thế, mỗi tác phẩm của Dân “bước ra” khỏi xưởng không bị thúc ép bởi giá cả hay đơn đặt.

Bằng tâm huyết của anh, những tác phẩm từ phế liệu đã 2 lần được trưng bày ở Trung tâm Triển lãm nghệ thuật đương đại (VCCA) tại Hà Nội. Tháng 7 năm nay, anh đã đưa triển lãm “Tái chất hoàn sinh - Vật chất tái sinh” đến gần hơn với công chúng.

Chiều muộn, gió thổi qua làm mấy vỏ lon va vào nhau leng keng. Thứ âm thanh vui tai như cách nói chuyện của Dân, như nhịp sống thường ngày ở xưởng Tái sinh. Dân kê lại góc tượng, phủi lớp bụi mịn bám trên chiếc áo loang lổ sơn, ngẩng lên nhìn ánh sáng cuối ngày hắt xuống từ mái tôn cũ. Ngoài kia, tiếng xe chở rác chạy qua con đường đất nhỏ, bỏ lại vài thanh sắt cong vênh bên lề. Chút nữa thôi, chàng “rác sĩ” ấy sẽ lại ghé nhặt. Như một thói quen, như cách anh gom góp từng mảnh bỏ đi để nối dài vòng đời của rác. Và có lẽ, cũng để tái sinh cuộc đời chính mình, từ rác!

Nguyễn Quốc Dân sinh năm 1984, quê xã Nam Phước, TP Đà Nẵng. Tuổi thơ của anh gắn với những năm tháng theo mẹ mưu sinh ở Phan Thiết, nhiều năm sống lang bạt nơi bãi rác, gầm cầu và chợ. Từ đó, Dân sớm hình thành niềm gắn bó đặc biệt với những thứ bị bỏ đi. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Mỹ thuật TPHCM, chuyên ngành Mỹ thuật ứng dụng, anh trở về Hội An (TP Đà Nẵng) và lập xưởng Tái sinh - nơi sáng tạo nghệ thuật từ phế liệu.

Tác giả DIỆU HUYỀN

Bình chọn bài viết

Bài viết mới