
Bài 1: Chiến dịch Monastyr - trò chơi hai mặt thành công nhất
Mùa hè năm 1941, cơ quan tình báo Xô viết bắt đầu một chiến dịch mà đến tận ngày nay vẫn được coi là một “vận dụng thành công nhất” và được đưa vào sách giáo khoa về nghệ thuật tình báo. Chiến dịch này kéo dài suốt chiến tranh và theo từng giai đoạn có những mật danh khác nhau như “Monastyr”, “Curery” và sau đó là “Berezino”.
Nguồn tin bên cạnh Nguyên soái Saposnikov

Cuốn sách Stalin’s Secret War của phương Tây viết về các chiến dịch phản gián của tình báo Xô viết chống lại phát xít Đức, trong đó có chiến dịch Monastyr
Cơ quan an ninh Xô viết từ lâu đã để mắt tới Boris Sadovski, một nhân vật có dòng dõi quý tộc của nước Nga trước cách mạng. Sau khi chính quyền Xô viết được thành lập, ông ta mất hết địa vị, tài sản của mình và luôn tỏ thái độ hằn học với cách mạng. Cơ quan phản gián Xô viết qua quá trình theo dõi nhân vật này đã nảy ra một sáng kiến sử dụng Sadovski như một nhân vật đứng đầu một tổ chức được bịa ra có tên “Prestol”, tìm cách cho Sadovski có được khả năng liên lạc với quân Đức.
Để “giúp đỡ” ông ta, phía Xô viết tung vào trò chơi này chiến sĩ tình báo Aleksandr Demianov có mật danh “Geine”. Trước năm 1941, Demianov sống ở nước ngoài và được Cục Chính trị đặc biệt (OGPU) tuyển mộ vào năm 1929. Do có đặc điểm xuất thân cùng với tính cách, ngoại hình dễ ưa, Demianov thường xuyên đi lại với các thành phần văn nghệ sĩ trong giới thượng lưu của Nga trước đây. Trước chiến tranh, anh được sử dụng chủ yếu với mục đích ngăn chặn các hoạt động phá hoại chính quyền cách mạng, tập trung vào mối quan hệ của các nhân vật quý tộc còn lại ở Liên Xô với những kẻ đang sống lưu vong ở nước ngoài. Một điệp viên kinh nghiệm với những mối quan hệ như vậy đã nhanh chóng chiếm được sự tin cậy của Boris Sadovski.
Ngày 17-2-1942, Demianov vượt qua chiến tuyến, tìm cách đầu hàng quân Đức và tuyên bố mình là đại diện của một tổ chức bí mật chống Liên Xô. Anh kể cho viên sĩ quan tình báo Đức về tổ chức “Prestol” và về việc mình được các chỉ huy của tổ chức này phái đi bắt liên lạc với bộ chỉ huy quân Đức. Sau một thời gian áp dụng mọi biện pháp kiểm tra, phản gián Đức cuối cùng đã hoàn toàn tin tưởng Demianov. Anh được tuyển mộ vào bộ phận tình báo quân đội của Đức tại Moscow với mật danh “Max”. Sau 3 tuần lễ huấn luyện các kỹ năng hoạt động tình báo, ngày 15-3-1942, Demianov được đưa lên máy bay nhảy dù vào hậu phương của Liên Xô.
Nhằm củng cố vai trò của Demianov trong cơ quan tình báo Đức đồng thời qua anh để chuyển cho chúng các thông tin có tầm quan trọng chiến lược giả, bộ chỉ huy chiến dịch đã sắp xếp cho anh làm sĩ quan liên lạc của chỉ huy Bộ Tổng tham mưu quân đội - Nguyên soái Saposnikov. Đô đốc Canaris, chỉ huy cơ quan tình báo quân đội Đức, cho đây là một thành công lớn của mình. Trong các tài liệu của Đức do phía Anh thu được sau chiến tranh có phần ghi nhận: Cơ quan tình báo quân đội đã cài được “người của mình” ngay cạnh Nguyên soái Saposnikov và đã nhận được nhiều thông tin có giá trị.
Gặt hái thành quả
Đầu tháng 8-1942, Max thông báo cho quân Đức, chiếc máy phát vô tuyến của tổ chức đang gặp trục trặc và đề nghị thay cái mới. Chẳng bao lâu, tại một căn hộ bí mật của NKVD (Cơ quan an ninh tiền thân của KGB) ở Moscow xuất hiện 2 liên lạc viên của tình báo quân đội Đức mang theo một số đồ dùng và 10.000 rúp. Nhóm điệp viên đầu tiên của Đức được các chiến sĩ phản gián Liên Xô để tự do trong khoảng 10 ngày nhằm kiểm tra các cuộc gặp bí mật, xác định rõ chúng có còn liên lạc với ai không. Sau đó, chúng nhanh chóng bị bắt giữ và thu hồi chiếc máy phát.
Hai tháng sau, hai điệp viên Đức khác bí mật vượt chiến tuyến mang theo 2 máy phát vô tuyến cùng nhiều trang thiết bị hoạt động tình báo khác. Họ có nhiệm vụ không chỉ giúp đỡ Max mà còn phải tự mình hoạt động tại Moscow, thu thập và truyền thông tin tình báo về qua chiếc máy phát thứ hai. Cả hai điệp viên này đều được cơ quan an ninh Xô viết tuyển mộ lại.
Họ nhanh chóng báo về bộ chỉ huy “Valley” - trung tâm chỉ đạo của tình báo quân đội Đức - rằng đã đến nơi an toàn và bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ. Từ thời điểm này, chiến dịch được phát triển theo hai hướng: Một là theo tổ chức Prestol với điệp viên Max, hướng thứ hai dựa vào các điệp viên được tuyển mộ lại có mật danh “Ziubina” và “Alaeva” theo một kênh liên lạc riêng tại Moscow. Khi bắt đầu một giai đoạn mới của cuộc đấu tay đôi bí mật, chiến dịch được đổi tên thành “Curery”.
Berlin rất hài lòng với công việc của Max cùng với hệ thống tình báo do anh giúp đỡ gây dựng. Ngày 20-12, Đô đốc Canaris quyết định tặng điệp viên tại Moscow của mình Huân chương Thập tự sắt hạng I, trong khi Mikhail Kalinin (chỉ huy cơ quan tình báo Xô viết) cũng ký chỉ thị phong tặng Demianov Huân chương Sao đỏ. Kết quả tổng cộng của hai chiến dịch “Monastyr” và “Kurery” là 23 gián điệp của Đức cùng tay chân của chúng bị bắt, tịch thu hơn 2 triệu rúp tiền Liên Xô khi đó, một vài máy phát vô tuyến, một số lượng lớn tài liệu, vũ khí và đạn dược.
Việc cung cấp thông tin giả đã đóng vai trò hết sức quan trọng vào thắng lợi của Hồng quân Liên Xô trong các chiến dịch tại ngoại ô Stalingrad và vòng cung Kursk. Phía Đức vẫn hoàn toàn tin tưởng cho đến giờ phút cuối cùng của chiến tranh. Điều này thể hiện qua bức điện cuối cùng của đơn vị tình báo 103 gửi cho mạng lưới của Max vào ngày 5-5-1945, ngay sau khi Berlin đầu hàng: “Chúng tôi rất buồn khi buộc phải ngừng giúp đỡ cho các bạn. Trên cơ sở tình hình hiện nay, chúng tôi cũng không thể đảm bảo việc liên lạc qua vô tuyến với các bạn được nữa. Cho dù bất cứ điều gì xảy ra trong tương lai đối với mình, chúng tôi vẫn luôn nghĩ về các bạn”.
Bài 2: Những chiến công thầm lặng của điệp viên Harry
Ngay sau khi quân phát xít bị đánh tan tác ngay tại ngoại ô Moscow vào tháng 12-1941, Hitler đã lập tức ra chỉ thị thành lập một đơn vị phản gián đặc biệt để chống lại mạng lưới “Kapella đỏ” của tình báo Xô viết. Nhiệm vụ chính của đơn vị này là phát hiện và tiêu diệt tất cả các nhóm tình báo Xô viết đang hoạt động tại Đức cũng như trên lãnh thổ của các nước Tây Âu đang bị quân phát xít chiếm đóng. Sau một thời gian hoạt động ráo riết, bọn phát xít đã phát hiện và bắt giữ được không ít các điệp viên Xô viết. Phần lớn những chiến sĩ này đều bị xử bắn, trong đó có một điệp viên của Cơ quan Tình báo quân đội (GRU) với mật danh Harry, người chỉ mới được tiết lộ trong thời gian gần đây.
Phong anh hùng sau nửa thế kỷ

Đã hơn nửa thế kỷ kể từ khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc nhưng nhiều chi tiết về Harry, điệp viên lãnh đạo bộ phận tình báo của GRU tại Pháp hồi đó vẫn chưa được làm sáng tỏ. Ngay cả tên họ thực sự của ông vẫn còn là đề tài tranh luận của các sử gia.
Người ta chỉ biết ông là một công dân Pháp, biết tiếng Nga, yêu thơ Puskin, cộng tác lâu năm với GRU vì những lý tưởng truyền thống của một người cộng sản. Ông đã bị một kẻ phản bội khai ra và bị Gestapo bắt. Sau một thời gian dài bị thẩm vấn và tra khảo, Harry đã bị bọn phát xít xử bắn.
Việc tìm hiểu những tài liệu về Harry cho thấy, bộ phận tình báo do ông lãnh đạo trong giai đoạn những năm 1930-1940 là một trong những mạng lưới hoạt động hiệu quả nhất của GRU tại nước ngoài.
Harry trong một thời gian dài đã tập trung vào hoạt động trong lĩnh vực tình báo kỹ thuật quân sự. Harry rất tích cực hợp tác với nhiều nhà bác học nổi tiếng, tiếp nhận những thành quả nghiên cứu của họ và gửi về Moscow. Năm 1997, Bộ chỉ huy Tổng cục Tình báo đã thuyết phục tổng tham mưu trưởng quân đội Nga về việc khôi phục lại những sự thực của lịch sử và truy tặng cho Harry danh hiệu Anh hùng nước Nga.
Harry (có tên khai sinh là Henry Robinson) sinh ngày 8-5-1897 tại Brussel, trong một gia đình thương gia có mẹ là người gốc Ba Lan. Đầu thế kỷ XX, gia đình Robinson chuyển sang sống tại Đức và Henry đã thi vào khoa ngữ văn của Trường Đại học tổng hợp Geidenberg. Ông tới Thụy Sĩ để chữa bệnh lao phổi và tham gia vào phong trào cách mạng tại đây. Năm 1920, Henry gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một thành viên tích cực của Quốc tế cộng sản.
Dù tham gia hoạt động cách mạng rất xông xáo, Henry vẫn kịp tốt nghiệp chuyên khoa luật ở Trường Đại học tổng hợp Zurich. Năm 1924, Henry Robinson có mặt tại Berlin và làm quen với điệp viên Oscar Stigga của GRU. Là một điệp viên có kinh nghiệm, Stigga dần dần lôi cuốn Henry vào những hoạt động tình báo cụ thể và chuyển về trung tâm những đánh giá tích cực về nhân vật mới này.
Từ năm 1935, Harry tới Moscow để tham gia một lớp đào tạo về nghiệp vụ tình báo. Đến năm 1937, ông được cử làm chỉ huy bộ phận tình báo bí mật của GRU tại Anh. Mạng lưới của Harry bao gồm nhiều thành viên đáng tin cậy, có khả năng khai thác những thông tin quan trọng về kỹ thuật quân sự. Tính ra, họ đã khai thác được một số lượng thông tin đáng kể về kỹ thuật hàng không, về vô tuyến định vị và những lĩnh vực mà Hồng quân đang quan tâm.
Theo đánh giá của cơ quan công nghiệp quốc phòng, những tài liệu do Harry cung cấp đã đáp ứng được những nhu cầu cấp thiết nhất, giúp tiết kiệm hàng triệu rúp thời bấy giờ.
Đứng vững cho đến phút cuối cùng
Harry không chỉ lãnh đạo hoạt động tình báo một cách có hiệu quả, mà bản thân còn tham gia rất tích cực vào việc tuyển mộ. Trong giai đoạn từ 1937-1940, ông đã tuyển mộ được tất cả 8 điệp viên có giá trị tại Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ. Tháng 10-1940, trung tâm chỉ thị cho Harry phải tập trung nỗ lực chính vào việc thu thập thông tin về nước Đức phát xít, về các lực lượng vũ trang của chúng cũng như các kế hoạch quân sự-chính trị của giới lãnh đạo Đức.
Chỉ vài tháng trước khi Đức tấn công Liên Xô, Harry bắt đầu báo về trung tâm một thông tin giá trị về việc điều chuyển các đơn vị quân Đức cùng phương tiện kỹ thuật quân sự từ Pháp sang Romania. Trên cơ sở của hiện tượng này, có thể khẳng định về việc quân Đức đang chuẩn bị tấn công Liên Xô. Thông tin của Harry còn được khẳng định từ nhiều nguồn dữ liệu khác đến từ Ilza Stebe, Richard Zorge, cũng như nhiều nguồn tin khác của GRU. Đến cuốn tháng 6-1941, Harry đã hoàn tất một đường dây liên lạc bằng vô tuyến điện riêng với trung tâm. Ông đích thân tuyển mộ một nhân viên điện đài và chủ nhân của căn hộ nơi đặt máy.
Sau một thời gian gián đoạn do nhân viên điện đài gặp tai nạn, trung tâm đã tìm mọi cách liên hệ với Harry bằng cách cử L.Trepper tiếp xúc trực tiếp với ông. Cho đến cuối năm 1942, mạng lưới tình báo của Trepper gần như đã bị tan vỡ. Trong tay của Gestapo còn có được mật mã của bộ phận này, cho phép chúng dễ dàng đọc được các bức điện gửi từ trung tâm từ ngày 30-6-1941, trong đó có nêu rõ tên họ và địa chỉ nhà của Harry. Ngày 21-12-1942, chúng bắt giữ Harry cùng gia đình công dân Italia là Griotti, vốn là chủ căn phòng bí mật nơi có chứa điện đàm. Cùng chung số phận với ông còn có nữ điệp viên Ilza Stebe ở Berlin.
Cho tới ngày toàn thắng, các tài liệu nói về thời gian hay việc hành hình của Harry không được tìm thấy. Nhưng có một điều chắc chắn, người điệp viên cộng sản này vẫn đứng vững cho đến giờ phút cuối cùng. Một số nguồn tin của ông - tên tuổi của họ đã được ông mang theo xuống mồ, nhờ vậy mà họ vẫn tiếp tục cộng tác tích cực với tình báo Xô viết.
Bài 3: Người lãnh đạo cụm tình báo “Capella đỏ”
(SGGP-12G).- Trong lịch sử Chiến tranh Thế giới thứ hai, Anatoli Gurevic được đánh giá là một trong những điệp viên mật hàng đầu, trong khi cách đây không lâu tại chính nước Nga, người ta lại không biết gì về ông. Chàng trai Anatoli Gurevic xuất thân từ Leningrad lại còn bị coi là kẻ phản bội tổ quốc, trước khi được phục hồi danh dự vào năm 1991. Anatoli Markovic Gurevic với mật danh Kent, từng là một trong những nhân vật lãnh đạo mạng lưới tình báo “Capella đỏ”nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Trưởng thành từ cuộc nội chiến Tây Ban Nha

Anatoli Gurevic đã quen với ý nghĩa của từ “hoạt động bí mật” ngay từ khi còn nhỏ: Căn hộ của cha ông - một dược sĩ tại Kharkov - từ trước cách mạng đã là một cơ sở của các đảng viên cộng sản hoạt động bí mật. Bước ngoặt trong cuộc đời của ông được bắt đầu từ khi cuộc nội chiến Tây Ban Nha nổ ra.
Gurevic cùng bạn bè quyết định tổ chức một nhóm học tiếng Tây Ban Nha và bày tỏ ý định được tới đất nước này trong vai trò các phiên dịch viên tình nguyện và ông đã được chọn cử tới Tây Ban Nha. Tháng 9-1939, Gurevic trở về Moscow. Ông nhận được lời đề nghị tham gia hoạt động tình báo tại Cục Tình báo quân đội (GRU). Ông được đào tạo tại một ngôi trường ở ngoại ô Moscow trong vai trò một nhân viên mật mã và liên lạc điện đài, trước khi được cử ra nước ngoài.
Thành công dưới vỏ bọc mới
Gurevic được giao nhiệm vụ hoạt động dưới vỏ bọc quý tử có tên Vincent Sierra trong một gia đình Uruguay giàu có. Tại Brussels, Gurevic (lúc này với mật danh là Kent) đã gặp gỡ với người lãnh đạo nhóm tình báo Xô viết tại Bỉ là Leopold Trepper, đồng thời bắt liên lạc với các nhân viên có vỏ bọc hợp pháp từ cơ quan đại diện thương mại của Liên Xô.
Cũng trong thời gian này, Kent làm quen với gia đình triệu phú Do Thái Zinger. Cô con gái Margaret của họ mới bị góa chồng trước đó không lâu. Cha Margaret đã đề nghị Kent đỡ đầu cho Margaret khi Đức đánh chiếm Bỉ và đổi lại đã bàn giao thêm một số quan hệ làm ăn. Thế là Kent có cơ hội để tạo thêm vỏ bọc cho mình.
Vào thời điểm đó, Trepper (hoạt động với giấy tờ của một công dân Canada) cũng buộc phải rời khỏi đây, do Canada là quốc gia công khai đứng về phe đồng minh. Kent phải nhận trọng trách chỉ đạo cả mạng lưới tình báo tại Bỉ, một bộ phận quan trọng hàng đầu của mạng lưới tình báo “Capella đỏ” chuyên hoạt động tại các khu vực do Đức kiểm soát cũng như các quốc gia trung lập.
Việc kết hôn với Margaret sau đó càng giúp cho Kent dễ dàng xâm nhập hơn vào giới quan chức cao cấp của Bỉ cũng như những nhân vật thân cận với bọn phát xít - chủ yếu là các thương gia cộng tác với bộ phận quân nhu của chính quyền phát xít.
Đây là một kênh quan trọng để thu thập thông tin về các kế hoạch phát triển chiến sự trong tương lai và tất nhiên những thông tin trên đã được nhanh chóng chuyển về Moscow, còn trước cả những lời cảnh báo của điệp viên Richard Zorge. Đến năm 1942, Kent lại thông báo về Moscow: Bộ chỉ huy của Hitler đã từ bỏ kế hoạch tấn công vào Moscow, thay vào đó sẽ tập trung quân để đánh chiếm vùng Kavkaz.
Mục đích chính là chiếm khu vực có tài nguyên dầu rất lớn này. Nhờ thông tin trên, Hồng quân đã kịp thời bố trí lại lực lượng, đập tan mũi tấn công của kẻ thù. Kent đã nhận được lời cảm ơn của chính Stalin sau chiến công này.
Cuộc đấu trí với cơ quan phản gián phát xít
Sau vô số tổn thất xuất phát từ hoạt động của cụm tình báo “Capella đỏ”, mật vụ phát xít Đức đã tập trung điều tra ráo riết và phát hiện ra dấu vết của Kent tại Brussels. Gestapo bắt giữ Kent và Margaret vào tháng 11-1942. Tại Berlin, ông được coi là một nguồn tin đặc biệt nên không bị tra tấn mà chỉ thẩm vấn.
Gestapo đã thành lập ra một ban đặc biệt gọi là “SS-Zondercommando Rota capelle” chuyên đảm trách việc điều tra về mạng lưới “Capella đỏ”. Kent được đề nghị tham gia vào một trò chơi hai mặt chống lại Liên Xô để đổi lấy mạng sống của mình và ông đã đồng ý.
Về sau, Kent cho biết: “Tôi quyết định “thừa nhận” những gì mà Gestapo đã biết. Ngoài ra, khi chuẩn bị báo cáo về trung tâm, tôi đã cố tình thay đổi phong cách viết, cách soạn thảo tài liệu cũng như nhiều đặc điểm khác, với hy vọng các nhân viên GRU sẽ đoán ra công việc của tôi đang bị kiểm soát”.
Trong biên bản kết luận về việc phục hồi danh dự của Gurevic sau này có đoạn: “Từ các biên bản thẩm vấn Gurevic, có thể nhận thấy ông luôn né tránh đưa ra những lời khai cụ thể về hoạt động của tình báo Xô viết, viện cớ quên hay không được cung cấp thông tin đầy đủ. Chỉ xác nhận những sự kiện đã được quân Đức biết từ các nguồn tin khác… Tính ra trong thời gian trên, Gurevic đã giúp bảo toàn mạng sống cho 15 điệp viên khác tại Tiệp Khắc, Bỉ và Pháp”.
Còn phải kể đến một chiến công có vẻ như “không tưởng” nữa của Gurevic, khi ông tuyển mộ lại được tên chỉ huy của Zondercommando là Hainz Pannvis cùng với hai nhân viên Gestapo khác. Gurevic đã lợi dụng sự sợ hãi của Pannvis do sau khi để Leopold Trepper chạy thoát, anh ta có nguy cơ bị kỷ luật bằng cách đẩy ra mặt trận phía Đông hoặc phải vào tù. Kết quả là Pannvis đã đồng ý hợp tác với Kent, cũng có nghĩa là với cơ quan tình báo Xô viết.
Số phận chìm nổi sau khi chiến tranh kết thúc
Tháng 5-1945, Gurevic trở về Moscow cùng với những người Đức đã được mình tuyển mộ. Nhưng ngay khi bước xuống chân máy bay, ông đã bị bắt giữ vì nghi ngờ phản bội tổ quốc. Cuộc điều tra kéo dài trong suốt 16 tháng và kết thúc với một bản án 20 năm tù.
Đến năm 1955, ông mới được thả theo chỉ thị “Ân xá cho các công dân Xô viết từng cộng tác với quân chiếm đóng trong giai đoạn chiến tranh giữ nước vĩ đại” nhưng lại bị bắt giữ lại chỉ một thời gian ngắn sau đó. Mãi tới năm 1960, Gurevic mới được ra tù trước thời hạn. Dù vậy phải đến 45 năm sau, Anatoli Gurevic mới được chính thức phục hồi danh dự, sau một quyết định được ký vào ngày 9-8-1991.
Bài 4: Chiến dịch tiêu diệt toàn quyền phát xít tại Belarus
(SGGP-12G).- Tháng 9-1941, tại Minsk xuất hiện trùm phát xít Wilhem Cube, mới được chỉ định làm tổng ủy viên quân vụ của Đức tại Belarus. Nhân vật này được cử tới Minsk nhằm thiết lập một “trật tự mới”. Trên các đường phố liên tục xảy ra những vụ bắt bớ và bắn giết, trong khi các giá treo cổ được dựng lên khắp các quảng trường. Sự tàn bạo của Cube gần như không có giới hạn. Theo chỉ thị của hắn, quân Đức thành lập ra các xóm Do Thái tại Minsk cùng với trại tập trung “Trostenes” là nơi đã tàn sát hơn 260.000 công dân Xô viết và nước ngoài.
Từ một đầu mối bất ngờ

Wilhem Cube
Trước tình hình này, bộ phận tình báo Xô viết tại Minsk nhận được lệnh phải nghiên cứu khả năng tiêu diệt Cube. Vào thời gian đó, nhóm điệp báo mang mật danh “Màu đen” (nằm trong thành phần lữ đoàn du kích đặc biệt do thiếu tá Fedorov chỉ huy) còn móc nối được với hai nguồn thông tin quan trọng là người Đức: Emil Schulz và Hendrich Trippel.
Theo báo cáo của Schulz, Cube vừa được triệu hồi về Berlin. Tại đó, Hitler đã ra lệnh cho hắn phải đẩy mạnh những hoạt động đàn áp chống lại người dân Belarus. Làn sóng bắt giữ và xử bắn mới sẽ bắt đầu từ ngày 30-9-1943. Biết được thông tin này, các chiến sĩ tình báo đưa ra kết luận: Cần phải tiêu diệt Cube trước ngày 30-9.
Trong khi việc nghiên cứu mọi phương án khả thi đang gặp bế tắc thì một thành viên trong nhóm là Georgi Culikov nói với trưởng nhóm Maria Osipova về việc có quen biết Nicolai Pokhlebaev - giám đốc một rạp chiếu phim tại Minsk - có quen biết với nhiều quan chức có thế lực của Đức phát xít. Nếu thuyết phục được Pokhlebaev hợp tác, có thể thông qua nhân vật này để triển khai kế hoạch tiêu diệt Cube.

Elena Mazanic
Georgi Culikov cuối cùng cũng sắp xếp được một cuộc gặp giữa Osipova và Pokhlebaev. Do đây là lần gặp đầu, Maria đã không tiết lộ quá nhiều, nhất là về kế hoạch tiêu diệt Cube. Cô chỉ tìm hiểu liệu Pokhlebaev có sẵn sàng giúp đỡ các chiến sĩ tình báo trong cuộc đấu tranh chống lại bọn phát xít hay không. Pokhlebaev cuối cùng đã đồng ý hợp tác với một điều kiện - ngay lập tức sắp xếp cho anh ta gặp gỡ với chỉ huy lực lượng kháng chiến.
Trong lần tiếp xúc thứ hai, Thiếu tá Fedorov và một điệp viên nữa được cử đi. Khi Fedorov trực tiếp đề nghị Pokhlebaev giúp đỡ tiêu diệt Cube, anh ta hứa sẽ giúp Osipova làm quen với Valentina Suska, người có cô chị gái là Elena Mazanic đang làm việc trong nhà của tên trùm phát xít.
Những thông tin về hai chị em Elena và Valentina nhanh chóng được thu thập. Trong đó có sự kiện đáng chú ý là chồng Valentina đã bị bọn phát xít bắn chết do có liên hệ với quân du kích. Trong lần tiếp xúc đầu tiên, Osipova đã trực tiếp đề nghị Elena giúp đỡ tiêu diệt Cube.
Trong cuộc gặp gỡ diễn ra tại làng Yanuskovich, Fedorov đã trao cho Valentina một ống thuốc độc để Elena có thể đầu độc Cube. Tuy nhiên, ống thuốc độc được Valentina mang về đã không thể sử dụng. Elena không có quyền bước chân vào trong bếp, nơi chuẩn bị đồ ăn cho cả gia đình Cube. Cô chỉ có nhiệm vụ dọn dẹp các phòng ngủ ở trên tầng 3.
Cũng trong thời gian này, Cube đã ra lệnh xử bắn thêm vài trăm tù nhân ngay tại Minsk. Trước những hành động tàn sát của hắn, yêu cầu loại bỏ tên trùm phát xít ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Sau khi kế hoạch đầu độc Cube không thành, Maria Osipova và Elena Mazanic đi đến kết luận: Họ còn một khả năng cuối cùng nữa là đặt mìn trong phòng ngủ của tên trùm phát xít. Maria hứa sẽ báo cáo kế hoạch này lên cấp trên và nếu được chuẩn y, “món quà” đặc biệt này sẽ nhanh chóng được chuyển tới cho Elena.
Đền tội
Sau khi được báo cáo, Fedorov chỉ thị mang tới cho Maria hai quả mìn mới được trung tâm gửi vào từ tháng 8-1943. Đây là loại mìn đặc biệt nhỏ gọn nhưng lại có sức công phá rất mạnh. Trong buổi gặp kế tiếp vào ngày 21-9, Maria hướng dẫn cho Elena về cách lắp đặt và mở ngòi nổ của mìn. Họ còn bàn bạc về các phương án mang mìn an toàn vào nhà của Cube cũng như việc rút lui sau đó. Mọi chuyện sau đó đều diễn ra theo đúng kế hoạch. Elena nhanh chóng hoàn tất những công việc thường ngày của mình như dọn dẹp phòng, lau cầu thang và đánh giày.
Khi Cube rời khỏi nhà, cô yêu cầu bà Anita cho phép ra ngoài một lúc để tới gặp bác sĩ nha khoa. Ngay sau đó, lựa chọn thời điểm thích hợp, Elena lẻn vào phòng ngủ của Cube, đặt mìn xuống dưới tấm nệm trên giường của hắn.
10g sáng, Elena đã có mặt tại vườn hoa nhỏ gần nhà hát Yanki Cupal, nơi có Maria Osipova và một chiếc xe tải đợi sẵn. Được chở tới Paperni, hai chị em nhà Elena phải đi bộ vài tiếng ở trong rừng trước khi tới được căn cứ của du kích. Và ngay rạng sáng, họ đã nhận được tin tên Cube đã bị tiêu diệt. Chiến dịch “Trừng phạt” đã thành công tốt đẹp.
Vụ tiêu diệt tên toàn quyền của Hitler tại Belarus có một ý nghĩa chính trị rất lớn, là một đòn nặng nữa giáng vào tâm lý của quân phát xít kể từ sau thắng lợi của Hồng quân tại vòng cung Kursk. Trung tâm hết sức quan tâm đến sự kiện này và đã yêu cầu phải báo cáo cụ thể công trạng và lý lịch của những người đã trực tiếp tham gia chiến dịch. Ngoài ra, lữ đoàn du kích còn được giao nhiệm vụ bảo vệ an toàn khu căn cứ và cả tính mạng những cô gái trực tiếp tham gia chiến dịch trước bất kỳ âm mưu trả đũa nào của quân phát xít.
Đến ngày 12-10, chị em nhà Elena và các thành viên khác trong chiến dịch tiêu diệt Cube đã được máy bay đón về trung tâm an toàn. Ngày 29-10, sau khi có chỉ thị trực tiếp của Stalin, Chủ tịch đoàn Xô viết tối cao Liên Xô Kalinin đã ký sắc lệnh phong tặng danh hiệu Anh hùng cho Elena Mazanic và Maria Osipova. Ngoài ra, Fedorov và Valentina cũng được tặng thưởng Huân chương Lenin. Về sau Thiếu tá tình báo Fedorov cũng được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô sau khi hy sinh trong một nhiệm vụ mới của tình báo quân sự.
NHƯ QUỲNH (tổng hợp)