
Đó là tựa đề bài thơ mà bà Nguyễn Thị Cách - người bạn đời của Thiếu tướng Tô Ký viết về ông, khi ông đã nằm xuống. Đã có rất nhiều giai thoại, nhiều chuyện kể, nhiều cách gọi và nhiều lời xưng tụng dành cho thiếu tướng Tô Ký - người con của 18 Thôn Vườn Trầu mang đậm tính cách Nam bộ, chánh trực, tình nghĩa, thủy chung. Với bà, ông mãi mãi là biển rộng, là người chồng tuyệt vời. Gặp bà ở tuổi ngoài 80, vào những ngày Nhà nước chuẩn bị truy tặng Thiếu tướng Tô Ký danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Những kỷ niệm xưa lại ùa về, dù ông đã đi xa hơn 11 năm.
Hảo hán đất Nam bộ

Chân dung Thiếu tướng Tô Ký
Gần 50 năm chung sống, tôi thấy con người anh Ký rất hay ở chỗ anh có thể hòa hợp được với nhiều tầng lớp, nhiều thành phần, từ trí thức, nông dân cho tới những anh em giang hồ mã thượng. Với tầng lớp nào, anh cũng gắn bó, thuyết phục và tạo được niềm tin. Cho nên, ai cũng nghĩ anh là “người của mình”.
Một lần, có người tên là Tư Hơn, theo Quốc dân đảng từ Bình Dương xuống tìm giết anh Ký. Tình cờ, anh Ký và người này trở thành bạn đồng hành với nhau. Được nửa đoạn đường, hai người dừng chân trong một căn nhà để xin nước uống. Lúc này, anh Ký mới hỏi thăm:
– Anh Tư từ Bình Dương xuống đây chi vậy?
– Tui đi kiếm Tô Ký để giết.
– Vậy nếu tôi là Tô Ký, anh có giết tôi không?
– Anh làm sao mà là Tô Ký được. Nãy giờ tôi đi với anh, nói chuyện thấy tâm đầu ý hợp quá chừng. Anh là người tốt. Làm sao mà tôi giết anh cho được…
Lúc này, anh Ký mới cười, nói thật tên mình cho người kia biết. Từ đó, 2 người thân thiết với nhau như anh em cho tới khi anh Tư Hơn mất.
Anh Tô Ký là tấm gương trong sáng của một người cộng sản chân chính, một vị tướng tận trung với nước, tận hiếu với dân, tận tình với đồng chí, đồng đội, một lòng một dạ phấn đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự trong sạch và vững mạnh của Đảng. Anh là một người lãnh đạo và chỉ huy gương mẫu, đầy tinh thần trách nhiệm, miệng nói tay làm, sâu sát chiến sĩ, gần gũi nhân dân, không ngại gian khổ, không sợ khó khăn, đem hết tinh thần và nghị lực để làm tròn nhiệm vụ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp |
Thời kỳ đầu kháng Pháp, tổ chức của ta vẫn còn trong giai đoạn trứng nước. Phong trào gặp rất nhiều khó khăn. Anh Ký bị giặc tổ chức ám sát nhiều lần nhưng đều thoát được. Có lần, giặc tìm vô tới tận chỗ ở định giết nhưng không hiểu vì sao tên tay sai thực thi nhiệm vụ lại thức tỉnh vào phút chót và đã tự thú trước anh. Tôi tin là anh Ký có một sức cảm hóa đặc biệt - sức cảm hóa từ chính nhân cách và con người anh.
Anh em đồng chí vẫn còn hay nhắc tới chuyện anh Tô Ký xỏ vàm trâu năm anh 19 tuổi. Tà Lài là trại tập trung chốn rừng thiêng nước độc gần sông Đồng Nai. Người bị giam ở trại phải lao động khổ sai, làm đường, làm lán cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Gần đó là khu vực tập trung đông đảo đồng bào người Mạ. Đảng ủy trại nhận định, phải thu phục được lòng của đồng bào Mạ để họ giúp ta khởi nghĩa hoặc vượt ngục. Do người Mạ không hiểu tiếng Việt, nên ta phải có người làm được một chuyện gì đó khiến họ kính phục để lôi kéo.
Vào đầu năm 1940, đàn trâu của người Mạ chăn thả ở trại tập trung Tà Lài có một con trâu to, cổ lớn, sừng dài mà chưa xỏ vàm. Không ai dám xỏ vàm cho nó vì sợ nó húc chết. Vậy mà anh Ký dám làm. Đầu trần, lưng trần, tay cầm một sợi dây mây vuốt nhọn, lùa hết trâu xuống nước rồi nhảy lên lưng con trâu, trườn dài lên đầu trâu, nằm giữa cặp sừng của nó rồi nhanh tay đâm sợi dây mây ngang lỗ mũi nhanh nhẹn buộc dây vào mang tai trâu. Tất cả mọi việc chỉ diễn ra trong vài phút.
Trước đó, Đảng ủy của trại đã có chủ trương lôi kéo rất đông người Mạ đến chứng kiến giây phút xỏ vàm cho con trâu dữ của anh. Vì vậy, sau khi thành công, mấy trăm người dân Mạ đứng trên bờ vỗ tay rần rần. Mấy tháng sau, anh Ký và đồng đội vượt ngục Tà Lài nhờ sự trợ giúp của đồng bào Mạ. Giặc treo giải thưởng bằng muối, bằng lúa, bằng tiền, ra lệnh cho đồng bào Mạ luồn rừng tìm bắt nhưng các anh vẫn an toàn trở về tiếp tục hoạt động.
Tấm lòng rộng mở
Với anh em đồng chí, bao giờ anh Ký cũng lo cho người ta nhiều hơn là lo cho bản thân mình. Chưa bao giờ tôi thấy ảnh tỵ hiềm hay ganh ghét một ai. Lúc đó, anh Ký với anh Trần Văn Trà là chỉ huy lực lượng giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa. Đây là đơn vị vũ trang đầu tiên của Nam bộ sau Nam kỳ khởi nghĩa. Lúc bấy giờ, lực lượng vũ trang trên có đại đa số là dân Nam bộ, chiến đấu với nhau đã lâu nên thân thiết như anh em một nhà.
Sau đó, anh Nguyễn Bình được Trung ương biệt phái vào nhận nhiệm vụ ở chiến trường Nam bộ. Do giặc bố ráp dữ quá, đường xa, đi lại khó khăn nên anh Bình bị mất hết giấy tờ. Thời kỳ đó, tình hình bất ổn, không có giấy tờ thì rất khó mà tin tưởng nhau. Vậy mà lần đó ảnh phá lệ, chỉ nhìn một hồi, hỏi han một số chuyện là tin. Anh Bình vô rồi, anh Ký và anh Trần Văn Trà quyết định ủng hộ anh Nguyễn Bình làm chỉ huy tại chiến trường Nam bộ. Và sự ủng hộ của anh đã không lầm. Tướng Nguyễn Bình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thu phục được nhiều tay anh chị, giang hồ coi trời bằng vung, thống nhất các lực lượng võ trang Nam bộ, đưa kháng chiến từng bước đến thắng lợi.
Trong cuộc sống hàng ngày, anh Ký luôn hòa đồng với anh em, dù ở cấp bậc, chức vụ nào. Ăn cơm, người ta đòi dọn lên bàn cho đàng hoàng, anh kêu hết anh em ra ngồi ăn dưới đất cho vui. Thời kỳ sống ngoài Bắc, nhà tôi không lúc nào có dưới 10 người khách. Anh em sắp đi B thường ghé qua tâm sự, chào anh Ký. Anh em ở miền Nam ra cũng tìm tới gặp anh. Tôi mua bánh, kẹo, đồ ăn… chất đầy trong tủ lạnh. Anh em tới nhà cứ vậy mà mở tủ lấy đồ ra ăn, uống tự nhiên như người nhà. Khách nhiều quá nên mỗi tháng cứ tới ngày 25 là tôi hết sạch tiền. Vậy là đi vay. Ngày 25 vay, ngày 1 tháng sau lãnh lương trả. Sau này, khi gia đình vào sống trong Nam, thường ai có việc gì khó khăn, oan ức hay lấn cấn trong lòng cũng tìm tới nhà gặp anh để nhờ giúp đỡ. Lúc nào anh cũng sẵn lòng, hỏi thăm cặn kẽ, nhận lại giấy tờ rồi hẹn ngày trả lời cụ thể.
***
Cho tới tận bây giờ, anh Ký mất đã lâu mà anh em, bạn bè ở khắp mọi miền đất nước vẫn còn viết thư về cho tôi nhiều lắm. Người ta nhớ, nhắc ảnh hoài. Hồi lúc sắp cưới nhau, nhiều người nói với tui: “Hổng sợ sao? Anh Tô Ký nóng tánh lắm”. Mà đúng là ảnh nóng tánh thiệt. Thế nhưng trước những chuyện quan trọng, chuyện liên quan tới việc dân, việc nước, ảnh thường rất bình tĩnh, ngồi suy nghĩ rất lâu. Có thiệt thòi gì ảnh cũng làm thinh. Nhiều khi tôi thấy chuyện bất ý, thấy anh chịu thiệt thòi nên cũng mở lời: “Cái chuyện này em thấy sao kỳ quá…”. Mới nói được chừng đó, ảnh đã gạt đi: “Đã làm cách mạng thì ai cũng phải hy sinh. Miễn sao xây dựng được một lực lượng khỏe mạnh để chống chọi với kẻ thù. Đừng ham vật chất. Cái tình, cái nghĩa mới là quan trọng”. Có lẽ do sinh ra ở tầng lớp lao động nghèo nên anh Ký có sự thông cảm sâu sắc với những người nghèo khó. Cho tới bây giờ, nhiều chị em bán hàng ở chợ Hóc Môn vẫn còn nhắc chuyện anh Ký mua cá của người mua đi bán lại thì anh trả giá, còn mua của người nông dân bắt cả ở đồng ruộng thì anh lại cho thêm tiền.

Vợ chồng Anh hùng Tô Ký chụp năm 1954
Lúc mới giải phóng, lần nào ra đường với anh, tới ngã ba, ngã tư cũng có người ngoắc, người gọi: “Anh Ba, anh Ba!”. Mấy năm nay, người tới thăm hay viết thư về ngày một ít dần. Anh và bạn bè, đồng chí lần lượt ra đi. Biết tin anh được Nhà nước truy tặng danh hiệu, tôi vui lắm. Chỉ tiếc là anh không chờ được tới ngày này. Bây giờ, mỗi ngày, cứ chừng 5 giờ 30 sáng là tôi lại nhớ đến anh. Đó là giờ anh vĩnh viễn đi xa. Anh đi rồi, làm việc gì, tôi cũng ráng làm, ráng sống cho trọn vẹn tình nghĩa với anh em, bạn bè, đồng chí, để như được thấy lại nụ cười tươi tắn, cái gật đầu và câu nói: “Má Cẩm Liên khá lắm!” của anh. Mãi mãi tôi vẫn là học trò của anh.
Thiếu tướng Tô Ký sinh ngày 5-9-1919 tại xã Bình Lý, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định cũ. Tham gia cách mạng từ năm 1935. Nguyên Tư lệnh đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, nguyên Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Gia Định, Thường vụ Khu ủy miền Đông Nam bộ, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, Chính ủy Quân khu 7, Chính ủy - Tư lệnh Quân khu 3, Phó Chủ tịch UBMTTQ TPHCM, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh TPHCM, đại biểu Quốc hội khóa 2. Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng… |
MAI HƯƠNG (ghi theo lời kể của bà Nguyễn Thị Cách - vợ Thiếu tướng Tô Ký)