(SGGPO). – Sáng nay, 16-1, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì hội nghị của Chính phủ với các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước.
Năm 2012: Các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước lỗ khoảng 2.253 tỷ đồng
Báo cáo về tình hình hoạt động và tái cơ cấu của các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước năm 2012 và định hướng nhiệm vụ năm 2013 do ông Phạm Viết Muôn, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Phó Trưởng ban thường trực Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp trình bày cho biết, năm 2012 tổng doanh thu của các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước đạt trên 1.621.000 tỷ đồng, bằng 92% so với kế hoạch năm, tăng 2% so với thực hiện năm 2011. Trong đó, các đơn vị có doanh thu lớn như dầu khí, điện lực, xăng dầu, viễn thông quân đội, bưu chính viễn thông, hàng không, lương thực miền Nam, dệt may, công nghiệp cao su. Một số đơn vị doanh thu giảm so với năm 2011 hoặc không đạt mức kế hoạch năm 2012 như cà phê, lương thực miền Bắc, công nghiệp than-khoáng sản.
Tổng lợi nhuận trước thuế đạt 127.510 tỷ đồng, giảm 5% so với thực hiện năm 2011. Tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu bình quân đạt 17,4%. Tổng nộp ngân sách đạt 294.000 tỷ đồng, bằng 100% so với kế hoạch năm nhưng giảm 12% so với thực hiện năm 2011, trong đó thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh nội địa chiếm 71%.
Cũng theo báo cáo này, lỗ phát sinh của các đơn vị khoảng 2.253 tỷ đồng, trong đó có một số tập đoàn, Tổng công ty lỗ trong năm 2011 thì năm 2012 tiếp tục lỗ. Có 10 đơn vị có lỗ lũy kế với tổng số khoảng 17.730 tỷ đồng.
Về tình hình tài chính, tổng vốn sở hữu của các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước là 735.293 tỷ đồng, tăng 1% so với năm 2011. Tổng tài sản là 2.138.780 tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2011, trong đó tài sản cố định chiếm tỷ trọng bình quân là 43,7%. Về công nợ, tổng nợ phải trả là 1.334.903 tỷ đồng, hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân là 1,82 lần (năm 2011 là 1,77 lần). Tổng tài sản/tổng nợ phải trả là 1,6 lần. Số liệu trên cho thấy năm 2012, nhìn tổng thể, hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, TCT vẫn nằm trong giới hạn cho phép. “Tuy nhiên, xét riêng rẽ, một số tập đoàn, Tổng công ty, tỷ lệ này vượt giới hạn cho phép, cá biệt có nơi rất cao”, ông Muôn nhấn mạnh.
Báo cáo cũng thể hiện, nợ nước ngoài của các công ty mẹ tập đoàn, Tổng công ty là 158.865 tỷ đồng, bằng 21,5% tổng nợ phải trả, tăng 11% so với năm 2011, các đơn vị có nợ nước ngoài lớn là Công ty mẹ-Tập đoàn điện lực, công ty mẹ- Tổng công ty Hàng không, Công ty mẹ- Tổng công ty phát triển đường cao tốc...
Cũng theo ông Muôn, tổng nợ phải thu là 326.556 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2011 và chiếm 15% tổng tài sản, trong đó số nợ phải thu khó đòi là 5.280 tỷ đồng, bằng 1,64% tổng số nợ phải thu.
Đánh giá chung về tình hình hoạt động của các tập đoàn, Tổng công ty trong năm 2011, ông Phạm Viết Muôn cho rằng, các đơn vị này đã nỗ lực hết sức trong bối cảnh khó khăn để duy trì sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động và bảo toàn, phát triển vốn của Nhà nước. Các đơn vị trong lĩnh vực năng lượng, viễn thông đạt hiệu quá khá cao; các đơn vị trong lĩnh vực nông nghiệp duy trì khá ổn định còn lĩnh vực vận tải, xây dựng rất khó khăn. “Các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước tiếp tục thực hiện vai trò là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần bình ổn giá cả, vật tư hàng hóa, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh, quốc phòng, chủ quyền quốc gia và an sinh xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế”, ông Muôn khẳng định.
Nhiều dự án đầu tư không tiếp tục triển khai được
Tuy nhiên, báo cáo này cũng nhấn mạnh đến những tồn tại, yếu kém của các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước. Thể hiện ở hoạt động sản xuất, kinh doanh của một số đơn vị giảm sút so với năm 2011 và không hoàn thành kế hoạch đề ra. Ngoại trừ các đơn vị lỗ do chính sách giá và do điều chỉnh chênh lệch tỷ giá (xăng dầu, điện) thì vẫn còn một số đơn vị hoạt động kinh doanh thua lỗ. Nhất là lĩnh vực xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thấp.
Đáng chú ý, vốn chủ sở hữu tăng rất thấp so với năm 2011 (chỉ tăng 1% trong khi năm 2011 tăng 9% so với năm 2010). Tình hình tài chính của không ít đơn vị thiếu lành mạnh. Có Tổng công ty không bảo toàn được vốn chủ sở hữu do kinh doanh thua lỗ, gặp nhiều rủi ro, không tự chủ được về tài chính; có Tổng công ty tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng nguồn vốn rất thấp. Một số đơn vị hoạt động phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay làm cho chi phí tài chính lớn và khả năng thanh toán nợ đến hạn thấp. Nợ phải thu khó đòi của một số tập đoàn, Tổng công ty khá cao, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng.
Báo cáo này cũng đánh giá, tình trạng lãng phí và ý thức thực hành tiết kiệm kém trong một số tập đoàn, Tổng công ty chưa được khắc phục nhiều. Nhiều dự án đầu tư không có hiệu quả, không tiếp tục triển khai được. Quản trị doanh nghiệp chưa có nhiều đổi mới, cơ cấu quản lý, điều hành tại một số đơn vị cồng kềnh, chi phí quản lý cao.
Những nguyên nhân dẫn tới các yếu kém trên được cho là có phần từ tình hình kinh tế trong và ngoài nước khó khăn. Một số đơn vị lại được giao nhiệm vụ bình ổn giá, thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát (ví dụ như Tập đoàn Than –khoáng sản phải bán than cho sản xuất điện với giá từ 63-65% giá thành; EVN hiện vẫn đang bán điện dưới giá thành và phải bù giá cho các hộ sử dụng dưới 100KW/tháng; xăng dầu mới chỉ được tính khoảng 70% chi phí bán hàng vào giá thành sản phẩm..) nên ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách..
Tuy nhiên, nguyên nhân của những yếu kém cũng được chỉ ra từ nội tại các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, điển hình là ý thức chấp hành pháp luật, sự chỉ đạo, điều hành ở một số doanh nghiệp chưa nghiêm, kỷ cương, kỷ luật hành chính và kinh doanh có nơi buông lỏng. Ngoài ra, một số đơn vị chưa chủ động tìm kiếm giải pháp vượt khó khăn, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước. Năng lực quản trị doanh nghiệp trong nhiều đơn vị còn hạn chế; khâu cán bộ, nhất là cán bộ quản lý cấp cao tiếp tục là khâu yếu (có nơi trong thời gian dài không có Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Tổng giám đốc).
Về tình hình tái cơ cấu các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước, ông Phạm Viết Muôn cho biết, đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước giai đoạn 2011-2015 đã được Thủ tướng phê duyệt. Trong năm 2012, đã sắp xếp được 21 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 13 doanh nghiệp (có 3 Tổng công ty), sáp nhập 5 doanh nghiệp và chuyển thành công ty TNHH một thành viên 3 doanh nghiệp. Phê duyệt việc bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược của 2 Tổng công ty đã thực hiện cổ phần hóa và Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam. Tái cơ cấu Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin (đề án tái cơ cấu Vinashin sẽ trình Bộ Chính trị vào cuối tháng 1-2013).
“Đã kết thúc tái cơ cấu Tổng công ty Dâu tằm tơ, chuyển sang công ty cổ phần với sự tham gia của công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. Đây là một “lô cốt” và đã được hoàn tất tái cơ cấu”, ông Muôn báo cáo với Thường trực Chính phủ.
Việc chấn chỉnh đầu tư ra ngoài lĩnh vực kinh doanh cũng đã được triển khai mạnh trong năm 2012. Nhiều đơn vị đã rà roát, xác định lại các ngành nghề chính, thoái vốn đầu tư, chuyển nhượng vốn đầu tư đối với các lĩnh vực ngoài ngành. Dù vậy, báo cáo vẫn đánh giá việc này còn chậm. “Nhìn chung tiến độ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp chậm, đặc biệt là việc cổ phần hóa”, ông Muôn nói.
Năm 2013, nhiệm vụ đặt ra đối với các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước là xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư phù hợp và tổ chức thực hiện để tăng trưởng khoảng 10%. Đồng thời với đó quyết liệt tái cơ cấu, sắp xếp, đổi mới các đơn vị theo đề án đã được phê duyệt. Chính phủ xác định năm 2013 tiếp tục còn nhiều khó khăn, doanh nghiệp nhà nước vẫn phải là lực lượng nòng cốt để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của năm. Các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước đẩy mạnh tiến độ thực hiện các dự án đang thi công; ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực như công nghiệp phụ trợ, công nghệ cao, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đặc biệt, phải nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, kiện toàn tổ chức quản lý. Bảo đảm tính hiệu quả đối với các dự án đầu tư phát triển. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, nhất là kiểm soát rủi ro tài chính để kịp thời có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro và điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho phù hợp. Những đơn vị đang có khó khăn về tài chính, cần làm rõ trách nhiệm của cán bộ quản lý có liên quan, mặt khác cần cơ cấu lại vốn, tài sản theo hướng đánh giá thực trạng, xác định nhu cầu vốn để có cơ chế xử lý bổ sung vốn tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư có hiệu quả, hạn chế thất thoát vốn do kéo dài thời gian dự án; cơ cấu lại tài sản bằng cách chuyển nhượng, sáp nhập các dự án, các khoản đầu tư không hiệu quả hoặc không cần thiết để tập trung nguồn lực cho hoạt động kinh doanh chính...
| |
PHAN THẢO