Chiều 2-12, tiếp tục kỳ họp thứ 7, Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035.
Phân bổ và giải ngân gắn với chỉ tiêu đầu ra
Là đại biểu (ĐB) đầu tiên phát biểu tại phiên họp, ĐB Nguyễn Tâm Hùng (TPHCM) nhận định, chương trình mục tiêu quốc gia lần này có quy mô lớn, chiều sâu chiến lược và kỳ vọng chính trị - xã hội rất cao. Để bảo đảm tính công bằng và bền vững, ĐB đề nghị cân nhắc bổ sung rõ hơn mục tiêu thu hẹp chênh lệch về cơ sở vật chất, chất lượng giáo dục và cơ hội học tập giữa đô thị - nông thôn - miền núi - hải đảo - vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Về kinh phí thực hiện chương trình, ĐB đề nghị cân nhắc bổ sung cơ chế phân bổ và giải ngân gắn với chỉ tiêu đầu ra có thể đo lường như: số phòng học kiên cố đưa vào sử dụng, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, số lượng người học được thụ hưởng các chương trình nâng cao năng lực, mức độ chuyển đổi số của cơ sở giáo dục. Theo ĐB, phân bổ vốn theo đầu ra sẽ khắc phục cơ chế xin - cho, thúc đẩy tiến độ và nâng hiệu quả thu ngân sách đầu tư.
Cùng quan tâm đến kinh phí cho chương trình, ĐB Trần Hoàng Ngân (TPHCM) đề xuất cơ cấu lại chi tiêu bằng cách tăng đầu tư vào cơ sở vật chất cơ bản để đối phó với biến đổi khí hậu và giảm chi tài chính thuần túy cho các lĩnh vực giáo dục đại học và phát triển đội ngũ, thay vào đó tập trung giải quyết các nút thắt về cơ chế, chính sách ưu đãi và quyền tự chủ
ĐB Trần Hoàng Ngân phân tích, tổng kinh phí thực hiện chương trình cả giai đoạn 2026-2035 là 580.000 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương dành cho chương trình là 100.000 tỷ đồng (bình quân khoảng 20.000 tỷ đồng mỗi năm).
“Số tiền này còn rất khiêm tốn so với nhu cầu và mục tiêu của chương trình, và cần có điều kiện để tăng thêm nguồn lực đầu tư cho giáo dục, chú trọng huy động thêm vốn từ các nguồn xã hội”, ông Trần Hoàng Ngân nhận định. Do vậy, ĐB đề xuất phân bổ nguồn chi hợp lý hơn.
Cụ thể, với dự án bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học thì cần gia tăng kinh phí vì trong tình hình biến đổi khí hậu, lũ lụt, bão lụt ngày càng tăng, các cơ sở giáo dục, trường học an toàn vừa là cơ sở giảng dạy, vừa có thể được xem là nơi trú ẩn khi cần thiết để bảo vệ sức khỏe và tính mạng nhân dân.
Thêm vào đó, trường học cần có thêm phòng học, trang thiết bị cho việc dạy học ngoại ngữ và dạy học STEM để giới trẻ quan tâm đến công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ở chiều ngược lại, ĐB cho rằng có thể giảm bớt kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm. “Điều quan tâm nhất của các cơ sở giáo dục đại học hiện nay là cơ chế chính sách hơn là nguồn lực tài chính”, ĐB Trần Hoàng Ngân bình luận.
Nhận định rằng bất bình đẳng cơ hội giáo dục không chỉ tồn tại ở miền núi mà ngay trong lòng đô thị, ĐB Nguyễn Hoàng Bảo Trân (TPHCM) đề cập đến nhóm đối tượng khác là con em công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.
ĐB Nguyễn Hoàng Bảo Trân đề nghị chương trình mục tiêu quốc gia phải xác định rõ con em của công nhân lao động là một nhóm đối tượng cần ưu tiên hỗ trợ. Ngoài ra, chương trình hỗ trợ tâm lý - kỹ năng cho trẻ em di cư cũng là rất cần thiết.
Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là bất khả thi?
Tại phiên thảo luận, nhiều ĐB có chung nhận định rằng mục tiêu đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai là một quá trình phức tạp, không chỉ dựa vào trang thiết bị mà còn phụ thuộc sâu sắc vào năng lực và trình độ ngoại ngữ của đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên các môn học khác.
ĐB Nguyễn Thị Lan Anh (Lào Cai) cơ bản nhất trí với việc đạt mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 30% cơ sở giáo dục mầm non công lập được trang bị thiết bị để triển khai dạy hoặc tiếng Anh, và từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Tuy nhiên, ĐB băn khoăn khi dự thảo quy định mục tiêu 30% áp dụng đồng loạt cho tất cả các tỉnh thành phố trên cả nước mà không phân biệt điều kiện kinh tế - xã hội, hạ tầng và nguồn lực giáo viên. Cách đặt mục tiêu đồng loạt như vậy có thể dẫn đến "chưa công bằng" và làm giảm hiệu quả của chính sách, đặc biệt đối với các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các địa phương khó khăn.
Thực tế hiện nay, nhiều tỉnh vẫn thiếu giáo viên tiếng Anh đáp ứng tiêu chuẩn; việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai đòi hỏi giáo viên các môn học khác cũng phải sử dụng tiếng Anh, điều này "bất khả thi trong thời gian ngắn". Nhiều địa phương cũng gặp khó khăn trong việc cân đối kinh phí để mua sắm và duy trì thiết bị hiện đại cho dạy tiếng Anh.
ĐB Huỳnh Thị Ánh Sương (Quảng Ngãi) chia sẻ quan điểm này và cho rằng thách thức lớn nhất là trình độ giáo viên. “Hiện nay, gần như các cơ sở giáo dục đại học mới chỉ đào tạo giáo viên dạy tiếng Anh, chứ chưa thể đào tạo giáo viên dạy các môn học bằng tiếng Anh. Giáo viên tiếng Anh không có kiến thức chuyên sâu của các môn khác để dạy bằng tiếng Anh; ngược lại, giáo viên các môn học khác lại "không đủ năng lực kỹ năng tiếng Anh để giảng dạy bằng tiếng Anh”, ĐB nêu rõ.
ĐB cảnh báo, nếu không bổ sung mục tiêu về trình độ giáo viên, rất có thể xảy ra tình trạng có thiết bị nhưng không thể giảng dạy bằng tiếng Anh, gây lãng phí nguồn lực.