Nguyễn Hàm Ninh, bậc hiền sĩ đất Quảng giữa thời danh loạn

Trong lịch sử văn hóa Quảng Bình, nếu Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một biểu tượng rực rỡ của thời hiện đại, thì Nguyễn Hàm Ninh là ánh sáng trầm ẩn của thời kỳ quá độ giữa Nho học và những chuyển mình mới. Ông không là tiến sĩ, không làm quan lớn, nhưng nhân cách, thơ văn và lối sống của ông đã tạo nên hình ảnh một bậc trí sĩ “tỉnh táo giữa mê lộ”, thanh liêm giữa danh lợi, một kiểu nhân vật rất cần được nhắc lại trong thời đại hôm nay.

Một đời điềm đạm

Nguyễn Hàm Ninh (1808–1867), tự Thuận Chi, hiệu Tỉnh Trai, quê tại xã Phù Kinh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng có truyền thống đạo học, ông từ nhỏ đã nổi danh nhờ trí tuệ sắc bén và đức hạnh trầm lặng.

1000059186.jpg
Mộ danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh nay tại khu vực Trung Thuần, xã Quảng Lưu, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình

Sách Nhân vật chí Quảng Bình của tác giả Nguyễn Tú bình chú: "Dù không đỗ đạt cao trong các kỳ thi Hương – Hội, ông vẫn được triều đình nhà Nguyễn tín nhiệm, từng đảm nhiệm các chức vụ như Hành tẩu Nội các, Viên ngoại lang Bộ Hình, Lang trung Bộ Lễ, rồi Thự Án sát Khánh Hòa. Trong một lần đi kiểm tra vùng duyên hải, ông không may bị bắt lên một tàu Pháp. Sự cố khiến triều đình nghi kỵ, giáng chức ông. Ông trở về quê, sống đời thanh đạm, dạy học, làm thơ đến cuối đời không oán thán, không xin xỏ".

Nguyễn Hàm Ninh để lại khoảng 200 bài thơ Hán – Nôm, trong đó không ít bài thể hiện chiều sâu đạo lý và nội tâm. Ông không dùng thơ để phô trương tài hoa, mà dùng thơ như một hình thức “giữ đạo” đạo làm người giữa thế sự đảo điên thời đó.

Một bài thơ thể hiện rõ tâm trạng của ông là: “Giang sơn sơn tận nhân không tận/ Thụy mộng mộng hồi lệ vị thanh”.

Nguyễn Tú tạm dịch: Non sông có thể hết, lòng người chưa cạn/ Giấc mộng chưa tan, nước mắt vẫn chưa khô.

Thơ ông không nhằm ca tụng công danh hay hô hào hành động, mà là một dòng suy tưởng tĩnh lặng, trăn trở về lẽ sống, đạo nghĩa, và sự cô đơn của kẻ sĩ khi thấy mình không thể hòa hợp với thời cuộc.

Khoảng 200 bài thơ Hán – Nôm. Không phải ai cũng nhớ. Không ai đọc để vỗ tay. Nhưng những người đã đọc, thường thấy trong thơ ông một dạng ánh sáng khác, yếu hơn, nhưng thật hơn.

“Bán thế tang thương độc bộ hành/Trường An vô khách vấn danh thanh”.

Ông là “kẻ lữ hành” cô độc của một thời đại, nơi những giá trị đạo lý bị dồn vào ký ức, còn thực tại thì chênh vênh trong những cuộc chuyển giao.

Đời làm quan của ông không dài nhưng đã có tới 4 bận bị từ chức, cách chức. Sau khi về già, nhìn lại quãng đường làm quan của mình, Nguyễn Hàm Ninh tự bạch:

“Làm quan hai chục năm trời ấy /Được cái nghèo xơ buổi trở về…”.

Một đối ảnh với Nguyễn Công Trứ

Nếu Nguyễn Công Trứ là hình ảnh của một trí thức dấn thân, luôn sẵn sàng xông pha, lập công, lập ngôn thì Nguyễn Hàm Ninh là đối ảnh khiêm tốn hơn nhưng cũng bền bỉ hơn. Nguyễn Công Trứ viết:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.

Nguyễn Hàm Ninh, ngược lại, chỉ thì thầm:

“Tâm sự tỏa thi lang” (Nỗi lòng hóa thành những bóng thơ phiêu lãng).

1000059185.jpg
150 năm qua, bóng ông vẫn ở lại với vùng đất Trung Thuần

Đó là hai cách làm người. Một hướng ngoại, khẳng định cái tôi; một hướng nội, giữ gìn cái tâm. Cả hai đều quý. Nhưng trong bối cảnh ấy, khi nhiều giá trị xã hội đang bị thử thách, nhân cách của Nguyễn Hàm Ninh ẩn sĩ giữa đời thường có thể là lời nhắc nhở quý giá.

Nhắc đến các bậc danh nhân triều Nguyễn, không ai không nhớ câu truyền tụng: “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán/Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường” (Nghĩa là: Văn được như Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát thì trước đời Hán cũng không tìm thấy ai; thơ đạt được bằng Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương thì đời Thịnh Đường cũng không có). Ấy thế mà cả Cao Bá Quát và Tùng Thiện Vương đều rất quý trọng tài năng thơ Nguyễn Hàm Ninh.

Nguyễn Hàm Ninh và Cao Bá Quát chính là bạn thơ trong lịch sử. Đại Nam chính biên liệt truyện (do Cao Xuân Dục làm tổng tài) có đoạn viết: "(Nguyễn) Hàm Ninh lấy văn học nổi tiếng. Về thơ văn thời trầm tĩnh, hùng mạnh; khi đè nén, khi phô trương, và sở trường về lối ngũ ngôn. Thương Sơn công (tức Tùng Thiện Vương) vẫn thường khen (thơ ông)".

1000059184.jpg
Mộ Nguyễn Hàm Ninh bên hồ nước lớn

Ngoài văn nghiệp, Nguyễn Hàm Ninh còn có ảnh hưởng sâu sắc trong giáo dục và nhân cách hóa đời sống vùng Quảng Trạch. Em của ông là Nguyễn Hàm Trực từng tham gia phong trào Cần Vương, để lại truyện thơ nổi tiếng “Nàng Chuột”, thể hiện tinh thần trào phúng yêu nước.

Tại Quảng Bình, tên ông được đặt cho trường học, đường phố. Các tác phẩm của ông được lưu giữ trong nhiều tuyển thơ cổ, văn học địa phương, và được giới nghiên cứu đánh giá là một trong những tiếng nói đạo lý cuối cùng của Nho học miền Trung.

Nguyễn Hàm Ninh không chọn cách lên tiếng ồn ào, cũng không rút vào núi non xa lánh. Ông sống giữa nhân gian, bằng sự nhẫn nại của một người giữ chữ “nhân” không vì thời cuộc mà uốn mình.

1000059187.jpg
Hàng năm người dân hương khói với danh sĩ Nguyễn Hàm Ninh

Ông không tổ chức nghĩa hội. Không để lại bất kỳ kế hoạch cải cách nào. Nhưng cũng không theo Tây, không khuất phục bất kỳ thế lực nào. Ông chọn làm một “người thầy” đúng nghĩa giữa một xã hội mà đạo học đã trở thành phương tiện cho quan lộ.

Hơn 150 năm sau khi ông qua đời, dòng thơ của ông vẫn thấm đẫm như sương sớm trên đất Trung Thuần lặng lẽ, trong veo, và soi bóng nhân cách. Khu mộ của ông nay được UBND tỉnh Quảng Bình công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh.

Tin cùng chuyên mục