Tự do học thuật để sáng tạo tri thức mới

Đại học Quốc gia (ĐHQG) TPHCM xác định sứ mạng tiên phong trong đổi mới cơ chế quản lý theo mô hình tự chủ đại học (TCĐH). Kế hoạch chiến lược giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn 2030 cũng xác định 3 giải pháp đột phá trong đó có nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản trị đại học mà trọng tâm là nghiên cứu triển khai mô hình TCĐH. 

Phóng viên Báo SGGP đã trao đổi với PGS-TS Vũ Hải Quân, Giám đốc ĐHQG TPHCM, để làm rõ hơn về vấn đề này.

PHÓNG VIÊN: Trong định hướng chiến lược sắp tới của ĐHQG TPHCM, vấn đề TCĐH được thể hiện ra sao, thưa ông?

PGS-TS VŨ HẢI QUÂN: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định 3 đột phá chiến lược trong đó có đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Để hiện thực hóa được đột phá chiến lược này, bên cạnh việc triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương đầu tư trọng điểm của Nhà nước thì TCĐH được xác định là giải pháp trọng tâm. Tự chủ về quản trị và tổ chức bộ máy sẽ giúp các ĐH chủ động tuyển dụng được những nhà khoa học, giảng viên, sinh viên xuất sắc; xây dựng và vận hành được hệ thống chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động. Tự chủ về tài chính giúp đa dạng hóa nguồn thu, từ việc khai thác tài sản trí tuệ, cơ sở vật chất đến việc chủ động hợp tác với doanh nghiệp, hình thành và vận hành các quỹ tài trợ, chủ động quyết định các khoản chi. 

Tự do học thuật là nhân tố quan trọng nhất để đảm bảo ĐH thực sự trở thành nơi sáng tạo tri thức mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. ĐH phải được quyền quyết định các vấn đề học thuật như tuyển sinh, đào tạo, mở ngành mới, quyết định về phương pháp, ngôn ngữ giảng dạy, các vấn đề về đảm bảo và kiểm định chất lượng…

Theo đó, về quản trị, tính từ đầu năm 2021 đến nay, ĐHQG TPHCM đã tái cơ cấu, sắp xếp lại bộ máy, sáp nhập 3 đơn vị trực thuộc và 2 đơn vị cấp ban để tăng hiệu quả hoạt động. Về đào tạo và nghiên cứu khoa học, ĐHQG TPHCM đã xây dựng chiến lược đào tạo 3 ngành trọng điểm: trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học - y sinh và khoa học vật liệu tiên tiến, đồng thời đang hoàn thiện thủ tục thành lập Trung tâm nghiên cứu dịch bệnh để có thể chủ động về thuốc, vaccine, đối phó với các biến thể của virus trong tương lai.

Tự do học thuật để sáng tạo tri thức mới ảnh 1 PGS-TS Vũ Hải Quân

Việc TCĐH đang gặp nhiều vướng mắc, cả về chính sách, khung pháp lý, thủ tục và thực tế triển khai… Ông có thể lý giải được điều này? 

TCĐH phải đi cùng với trách nhiệm giải trình. Trách nhiệm giải trình thể hiện sự minh bạch của các bên liên quan. Thông thường, đó sẽ là một báo cáo giải trình được xây dựng dựa trên các chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động, trong đó có 2 chỉ số quan trọng là tài chính và chất lượng đào tạo. Các trường ĐH nhận kinh phí từ ngân sách nhà nước, từ nhà tài trợ và từ nguồn học phí của sinh viên và do vậy việc minh bạch các khoản chi là bắt buộc. Chỉ số thứ hai là chất lượng đào tạo mà thước đo quan trọng nhất là khả năng có việc làm của người học sau khi tốt nghiệp cũng như mức độ hài lòng của nhà tuyển dụng.
Quá trình TCĐH ở Việt Nam đã đặt ra 3 thách thức rất lớn liên quan đến tài chính ĐH mà nếu không có hệ thống các giải pháp đồng bộ sẽ giới hạn cơ hội tiếp cận GDĐH của một bộ phận không nhỏ sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, khiến các trường ĐH chạy theo những ngành đào tạo dễ tuyển sinh, làm mất cân đối nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển quốc gia. Ba thách thức tài chính đối với các trường ĐH tự chủ gồm: Không còn được đảm bảo nguồn chi từ ngân sách nhà nước; chưa có chính sách tín dụng phù hợp cho sinh viên vay; chưa đa dạng hóa được các nguồn thu. 
Hệ thống GDĐH đang đối mặt với một khó khăn cơ bản, là nguồn chi từ ngân sách nhà nước rất giới hạn. Nó chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với chi cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Nghị định 86 do Chính phủ ban hành năm 2015 cho phép các trường ĐH công được tự chủ, trong đó có tự chủ về tài chính. Theo đó, các trường ĐH công lập nếu tự chủ hoàn toàn theo nghị định này sẽ không còn được nhận kinh phí chi thường xuyên và chi đầu tư từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, các trường ĐH tự chủ sẽ được phép tính học phí theo định mức kinh tế - kỹ thuật, thực hiện tính đúng, tính đủ và thường cao hơn so với mức học phí trước khi tự chủ. Thực tế cho thấy, học phí năm học 2020-2021 bậc đào tạo cử nhân tại các trường ĐH công lập tự chủ cao hơn 2,1-3,5 lần so với các trường ĐH không tự chủ (cao hơn cả là ở các trường đào tạo khối ngành y - dược). 
Mặt trái của việc tăng học phí trong các trường ĐH công lập tự chủ có thể làm giảm cơ hội được đến trường của các sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn, làm chậm quá trình mở rộng quy mô đào tạo nhân lực trình độ ĐH. 
Để TCĐH thực sự phát huy hiệu quả, giải phóng hết các nguồn năng lượng, thúc đẩy GDĐH phát triển, ông có kiến nghị gì? 
Để nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện con người, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm đạt được mục tiêu xây dựng quốc gia sáng tạo, độc lập, dân chủ, giàu có và bản sắc, chúng tôi cho rằng GDĐH phải được đặt ở vị trí ưu tiên cao nhất. Trên cơ sở đó, có 2 kiến nghị liên quan đến đầu tư của nhà nước cho GDĐH và chính sách tài chính cho sinh viên.

Về đầu tư của Nhà nước cho GDĐH, theo tôi, cần sớm xây dựng và ban hành chiến lược tổng thể phát triển GDĐH ở Việt Nam, trong đó có phân tích, dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao cho mỗi giai đoạn, đề xuất kinh phí đầu tư của nhà nước để đào tạo nhóm lao động này, từ đó sớm xây dựng và triển khai cơ chế đặt hàng đào tạo đối với các trường ĐH trong đó có 2 ĐHQG. Bên cạnh nguồn đầu tư chiều sâu cho cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, cần quan tâm đầu tư trực tiếp cho các nhà khoa học giỏi. Có lộ trình điều tiết ngân sách nhà nước đối với các trường ĐH tự chủ theo hướng chỉ dừng cấp ngân sách chi thường xuyên sau khi trường ĐH đã tự chủ xong một chu kỳ đào tạo (4-5 năm), để đảm bảo việc tăng học phí của các trường ĐH tự chủ theo lộ trình. Sớm hoàn thiện các thể chế chính sách pháp luật để thúc đẩy hợp tác PPP, nghiên cứu chuyển giao khoa học - công nghệ, thúc đẩy văn hóa hiến tặng…

Tiếp theo, cần mở rộng đối tượng được hưởng chính sách tín dụng sinh viên. Điều chỉnh mức cho vay nhằm đảm bảo cho sinh viên có thể chi tiêu cho đời sống bằng nhóm trung bình của xã hội và đủ tiền nộp học phí. Giảm mức lãi suất cho vay đối với sinh viên là 3%-4%/năm hoặc chia theo lộ trình trong thời gian đi học được áp dụng lãi suất vay ưu đãi là 3%-4%/năm; sau khi tốt nghiệp sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Điều chỉnh thời gian vay tối thiểu 15 năm hoặc gấp 3 lần thời gian vay (ví dụ học 4 năm được vay và trả nợ vay tối đa là 12 năm; học 7 năm tối đa là 21 năm). Nghiên cứu xây dựng và sớm ban hành chính sách tín dụng cho vay thương mại dành cho sinh viên.

Sau 25 năm xây dựng và phát triển, ĐHQG TPHCM đã và đang hình thành mô hình hệ thống các trường ĐH hiện đại trong quản lý, tiên tiến trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, hiệu quả, thiết thực trong phục vụ cộng đồng... Theo công bố của Tổ chức Xếp hạng QS, ĐHQG TPHCM lần thứ 3 có tên trong tốp 801-1.000 ĐH xuất sắc nhất thế giới, là ĐH duy nhất của Việt Nam xuất hiện trong bảng xếp hạng về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm tốt nhất thế giới ở vị trí 301-500. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2016-2020, ĐHQG TPHCM đã đào tạo và cung cấp cho TPHCM và các tỉnh, thành phía Nam hơn 60.000 cử nhân, kỹ sư, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ.


Tin cùng chuyên mục