Né tránh khái niệm lợi nhuận hay phi lợi nhuận trong GD phần nào khiến cho gần 20 năm nay việc triển khai mô hình đại học ngoài công lập luôn gặp trở ngại. Phần này, phóng viên Báo SGGP trao đổi với Giáo sư Phạm Phụ về nguyên nhân vì sao lại như vậy và thực chất là gì?
“Vì lợi nhuận” trong GD và “khuyết tật”
- PV: Thưa GS, để có thể áp dụng mô hình J-model như GS đã nói, chúng ta cũng cần tăng tỷ lệ SV ở ĐH tư thục cao hơn. Tuy nhiên, sự phát triển của GDĐH ngoài công lập hiện nay như đang chững lại. Phải chăng do còn chưa minh bạch hóa cơ chế vì lợi nhuận hay không vì lợi nhuận?
GS PHẠM PHỤ: Đặc trưng cơ bản về mặt pháp lý, kinh tế và tổ chức của một tổ chức “không vì lợi nhuận” là: thứ nhất, “Không được chia lợi nhuận cho một ai”; thứ hai, “Không có chủ sở hữu” hay “nó sở hữu chính nó”, không có nhà đầu tư, tài sản ở đây là thuộc “sở hữu cộng đồng”, nguồn vốn chủ yếu của nó là từ cho tặng và học phí; và thứ ba, “Thường được quản trị bởi một hội đồng đại diện cho những nhóm có lợi ích liên quan”. “Không vì lợi nhuận” không có nghĩa là không được phép tạo ra lợi nhuận và thu nhập không bao giờ được vượt quá chi phí. Hơn nữa một tổ chức “không vì lợi nhuận” vẫn có thể có một bộ phận vì lợi nhuận.
Còn đã là vì lợi nhuận thì triết lý của nó vẫn tuân theo triết lý nói chung của một công ty là “cực đại lợi nhuận”. Do vậy, các ĐH “vì lợi nhuận” trên thế giới như luôn ở cơ chế của một công ty. Cơ chế đã không rõ ràng thì làm sao mà phát triển được.
- Nhưng đã nói đến lợi nhuận thì buộc phải coi GDĐH là một hàng hóa, cho dù người ta vẫn nói nó là một hàng hóa đặc biệt. Do vậy, nó vẫn ẩn chứa nhiều khuyết tật, thưa GS?
Nói riêng về khía cạnh này, dịch vụ GDĐH có đặc điểm là “thông tin bất đối xứng”. Ở đây người mua thường được biết rất ít và cũng rất khó đánh giá về loại hàng hóa mà họ đang mua và rất dễ lâm vào tình cảnh nhận được chất lượng thấp hơn nhiều so với chất lượng mà họ kỳ vọng cũng như cái giá mà họ đã chi trả. Thị trường như vậy thường chỉ là thị trường của niềm tin hay thị trường của vận may, như GD, y tế, trung tâm chăm sóc người già, trẻ em… Vì vậy, ĐH vì lợi nhuận rất dễ bị khuyết tật, người mua rất dễ bị đánh lừa, dễ bị những tác động xấu của cơ chế thị trường.
- Nhưng trên thế giới vẫn có nhiều ĐH vì lợi nhuận đấy ạ?
Vấn đề ĐH vì lợi nhuận, ở Canada hiện nay vẫn không khuyến khích và còn tranh cãi, ở Mỹ thì chưa được giải quyết và số SV cũng chỉ chiếm khoảng 1% của tổng số SV, ở Ấn Độ cho là “những cửa hàng bán lẻ tri thức” và còn nhiều lời lẽ nặng nề khác. Nhưng vấn đề là, hầu hết các nước ở châu Á còn chưa có truyền thống tặng không GDĐH nên khó có ĐH không vì lợi nhuận. Đã không vì lợi nhuận thì sẽ không có nhà đầu tư, làm sao mà huy động được nguồn lực xã hội cho GDĐH. Có hai mặt như vậy nên nhiều nước ở châu Á chỉ mở cửa một phần đối với nhà đầu tư và do đó đã xuất hiện loại ĐH “nửa vì lợi nhuận”.
Những kẽ hở trong quản lý
- Vâng, còn ở Việt Nam, dù ĐH ngoài công lập đã phát triển hơn 20 năm, nhưng dường như chúng ta vẫn chưa có cơ chế không vì lợi nhuận và càng sợ hãi cụm từ “vì lợi nhuận”?
Đúng vậy, mặc dù cơ chế này đã được trao đổi ở hội thảo Quy chế ĐH tư thục từ năm 2004, nhưng đến năm 2005, Nghị quyết 05 về xã hội hóa vẫn viết: “Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngoài phần được dùng để đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư…, lợi nhuận chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển”. Vừa qua Bộ Tài chính cũng giải thích một cách tương tự. Tôi cho rằng, đây là một kẽ hở. Đã phi lợi nhuận thì không có nhà đầu tư, và tài sản được đầu tư bằng lợi nhuận nếu vẫn là sở hữu của một ai đó thì vẫn không thể nói là phi lợi nhuận.
- Có lẽ vì vậy mà nhiều trường ngoài công lập hiện nay vẫn khăng khăng cho rằng mình hoạt động phi lợi nhuận, thưa GS?
Các trường ngoài công lập hiện nay thực ra có lịch sử khá khác nhau. Trên thực tế, có trường là vì lợi nhuận, có trường có thể xem là “nửa vì lợi nhuận” và cũng có trường thực tế không có chủ sở hữu, không chia lợi nhuận… nên cũng có thể xem là không vì lợi nhuận. Nhưng nếu không có một “hội đồng đại diện” đúng nghĩa ở đây như đã nói ở trên, không có sự giám sát của cộng đồng cũng như công khai minh bạch thì vẫn có nhiều cách để lách và từ đó sinh ra những khuyết tật. Một nhà nghiên cứu về hình thái phi lợi nhuận đã nói: nếu không có giám sát vẫn có thể trở thành sa đọa! Ở các nước, các tổ chức phi lợi nhuận nói chung, hàng năm vẫn phải nộp báo cáo tài chính cho cơ quan thuế.
Thực ra, từ tháng 1-2006, Chính phủ đã có Chỉ thị 193 yêu cầu trình cơ chế phi lợi nhuận vào cuối năm đó. Và trong 2 năm (2008 và 2009), một lần nữa cơ chế này lại được trao đổi khi dự thảo Nghị định hợp tác đầu tư về GD với nước ngoài. Nhưng rồi cho đến dự thảo này, cơ chế không vì lợi nhuận như vẫn bỏ ngỏ một cách có chủ ý. Tôi cũng không rõ vì sao nữa, trong khi ngày nay sự phân biệt giữa “vì lợi nhuận” – “không vì lợi nhuận” còn quan trọng hơn là phân biệt giữa công và tư.
- Thưa, GS có cho rằng, những mảng mờ ấy là mảnh đất màu mỡ cho tiêu cực sinh sôi, cả ở cấp quản lý nhà nước cũng như ở cơ sở ĐH?
Mảng mờ ở cấp quản lý nhà nước chủ yếu chính là mối quan hệ cung – cầu trong GDĐH. Cung hiện nay mới xấp xỉ 40% của cầu, vì vậy xin một giấy phép lập trường rõ ràng là xin một đặc quyền. Thêm vào đó là sự tù mù trong quan niệm về cầu cũng như chất lượng trong GDĐH. Có thể nói rộng ra, hễ nơi nào có chênh lệch cung - cầu lớn và có sự tù mù trong quan niệm thì nơi đó là mảnh đất màu mỡ với cơ chế xin - cho và từ đó tiêu cực sinh sôi.
Hẳn nhiều người còn nhớ vụ việc của ĐH Phan Thiết. Khi câu chuyện này được đưa lên các phương tiện truyền thông, Vụ GDĐH nêu lý do là: “Không quy định bắt buộc kiểm tra thực tế”, dư luận thấy là chưa thuyết phục. Sau đó là có kiểm tra thực tế, vụ lại cho là: “Đủ điều kiện hoạt động đào tạo” với chỉ tiêu tuyển năm đầu là 750 SV nhưng đã có 63 giảng viên cơ hữu, nghĩa là có chưa tới 12 SV trên 1 giảng viên cơ hữu, dư luận thấy rất khó tin.
ĐH tư thục “nửa vì lợi nhuận”
- Vậy theo GS, chúng ta cần làm gì để xóa đi những mảng “mờ” nguy hiểm đó, để việc xã hội hóa GD phát triển mạnh hơn, đúng hơn, trước hết là trong lĩnh vực GDĐH?
Theo tôi, do Việt Nam chưa có truyền thống cho tặng GDĐH nên ĐH tư không vì lợi nhuận có lẽ chỉ có trong một số trường hợp riêng. Vì vậy cần khuyến khích phát triển các ĐH tư thục “nửa vì lợi nhuận”, ví dụ có mức lãi tối đa bằng 150% lãi suất huy động của ngân hàng chẳng hạn. Có thêm 50% lãi suất là để bù đắp rủi ro cho một số rủi ro có thể có. Khi cung trong GDĐH lên gần bằng cầu, mức rủi ro sẽ cao hơn, có thể hiệu chỉnh cao hơn con số 50% nói trên. Phần lợi nhuận cao hơn 150% sẽ trở thành sở hữu cộng đồng.
Khi đó bên cạnh nhà đầu tư tư nhân, nhà nước và có thể cả các cơ sở ĐH công lập có thể góp vốn bằng đất đai và các nguồn vốn sẵn có của mình để phát triển loại ĐH công – tư phối hợp. Đây là một dạng ĐH mà WB đang khuyến khích phát triển. Tất nhiên, vẫn có thể có cơ sở ĐH tư là “vì lợi nhuận”, nhưng khi đó, chính sách của Nhà nước sẽ khác so với loại “nửa vì lợi nhuận”. Các loại ĐH “vì lợi nhuận” đều phải ở trạng thái của một công ty, ngay cả với chính sách đất đai và thuế, dù có ưu đãi. Với một ít các cơ sở ĐH “không vì lợi nhuận” thì Nhà nước cần có tài trợ và ưu đãi đặc biệt.
- Nhưng việc lập trường lâu nay vẫn buộc phải phù hợp với quy hoạch mạng lưới ĐH, e rằng chẳng có mấy nhà đầu tư nghiêm túc tham gia vì vướng vào cái gọi là cơ chế xin - cho?
Vậy cho nên chúng ta phải xóa bỏ cơ chế xin - cho trong việc lập trường và không yêu cầu phải phù hợp với quy hoạch mạng lưới ĐH. Vì rằng, một mặt quy hoạch mạng lưới có độ tin cậy rất thấp, mặt khác nhà đầu tư mở một ĐH cũng giống như mở một doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ tự biết lo và biết tính đến những tín hiệu của thị trường. Nếu đáp ứng đủ các yêu cầu quy định thì đương nhiên được mở trường.
- GS có tin khi có cơ chế rõ ràng, phương án mà GS đưa ra sẽ khắc phục được những bất cập mà chúng ta vừa nói đến?
Khi có minh bạch về cơ chế tư thục, ĐH tư thục, kể cả ĐH liên doanh với Nhà nước cũng như liên doanh với nước ngoài, sẽ phát triển lành mạnh và nhanh chóng đáp ứng được mục tiêu đã nêu ra, có từ 30% – 40% SV tư thục trong tổng số SV vào năm 2020. Xin lưu ý thêm, để đạt được mục tiêu này, mỗi năm cần phải có thêm trên 100.000 chỗ học mới cho SV tư thục.
Linh An
- Thông tin liên quan:
- Bài 1: "Suất đầu tư" và công bằng xã hội