10 vấn đề chính của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

Trong khuôn khổ phiên họp thứ 33, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đã được tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 để chuẩn bị lấy ý kiến nhân dân. Sau đây là 10 vấn đề chính của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

(SGGPO).- Trong khuôn khổ phiên họp thứ 33, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đã được tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 để chuẩn bị lấy ý kiến nhân dân. Sau đây là 10 vấn đề chính của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)

1. Về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ quyền dân sự

Dự thảo Bộ luật (Điều 21 và Điều 22) quy định, Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân và được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại tòa án, trọng tài hoặc theo thủ tục hành chính; Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Trong trường hợp này, Tòa án căn cứ vào nguyên tắc quy định tại Điều 12 và Điều 13 của dự thảo Bộ luật để xem xét, giải quyết.

 Điều 12. Áp dụng tập quán

1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự, được thừa nhận và áp dụng một cách rộng rãi, lặp đi lặp lại một thời gian dài trong một lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc một lĩnh vực hoạt động cụ thể nào đó mà không được quy định trong pháp luật.

2. Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán. Tập quán không được trái với những nguyên tắc cơ bản quy định tại mục 1 của Chương này, không vi phạm điều cấm của luật và những quy định bắt buộc trong hợp đồng.

Điều 13. Áp dụng tương tự pháp luật

1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định trực tiếp và không có tập quán thì áp dụng quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự (tương tự pháp luật) để giải quyết.

2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại mục 1 của Chương này và lẽ công bằng để giải quyết.

2. Về quyền nhân thân của cá nhân

Bộ luật Dân sự hiện hành quy định về quyền nhân thân (từ Điều 24 đến Điều 51) theo cách thức liệt kê cụ thể các quyền nhân thân.

Quy định về quyền nhân thân trong dự thảo Bộ luật (từ Điều 32 đến Điều 52) về cơ bản tiếp tục quy định các quyền nhân thân như trong Bộ luật hiện hành, tuy nhiên, có sửa đổi và bổ sung một số quyền nhân thân được quy định trong Hiến pháp (quyền lập hội, quyền tiếp cận thông tin, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, thân thể, quyền được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân...) cho phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013, các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời bổ sung một điều khoản chung về các quyền nhân thân khác theo quy định của luật (Điều 52) để bảo đảm hơn tính bao quát, dự báo của quy định về quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự.

3. Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự

Bộ luật dân sự hiện hành quy định chủ thể của quan hệ dân sự bao gồm: cá nhân, pháp nhân (bao gồm cả cơ quan nhà nước), hộ gia đình, tổ hợp tác. Thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy, chỉ có cá nhân, pháp nhân là hai loại chủ thể chủ yếu, thường xuyên trong giao lưu dân sự, trong khi đó việc quy định hộ gia đình, tổ hợp tác là chủ thể độc lập của quan hệ dân sự đã và đang tạo ra những khó khăn trong việc xác định thành viên, người đại diện, trách nhiệm dân sự của các chủ thể này... mà đến nay, các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa khắc phục được một cách hiệu quả (pháp luật đất đai quy định hộ gia đình là chủ thể được giao đất, nhưng cơ quan có thẩm quyền giao đất về cơ bản chỉ xác định được chủ hộ, còn các thành viên của hộ gia đình thì không xác định được; đối với tổ hợp tác, một tỷ lệ lớn là chủ thể này không được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền).

Để khắc phục bất cập nêu trên, dự thảo Bộ luật chỉ quy định chủ thể của quan hệ dân sự là cá nhân và pháp nhân, đồng thời có một số quy định riêng về việc tham gia quan hệ pháp luật dân sự của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương (tham gia quan hệ dân sự với tư cách là pháp nhân).

4. Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức

Bộ luật Dân sự hiện hành quy định về vấn đề này tại Điều 134. Theo đó, "Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu".

Dự thảo Bộ luật (Điều 142) quy định: Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo nhưng không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch dân sự đã chuyển giao vật, tiền hoặc đã thực hiện công việc thì giao dịch dân sự vẫn có hiệu lực; trong trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch dân sự đó. Trường hợp chủ thể chưa chuyển giao vật, tiền hoặc chưa thực hiện công việc thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án cho phép thực hiện quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong một thời hạn hợp lý; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch dân sự đó mới bị tuyên vô hiệu.

5. Về bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu

Bộ luật Dân sự hiện hành (Điều 138) quy định, trường hợp giao dịch dân sự bị Tòa án tuyên bố vô hiệu nhưng tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu được nhận lại tài sản của mình, trừ hai trường hợp: (1) Người thứ ba nhận được tài sản thông qua bán đấu giá; (2) Người thứ ba giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

Dự thảo Bộ luật (Điều 145) quy định: “Trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu; trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba thì giao dịch này bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”.

6. Về thời hiệu và thời hiệu về thừa kế

Bộ luật dân sự hiện hành quy định ba loại thời hiệu: (1) Thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự (gọi chung là thời hiệu khởi kiện); (2) Thời hiệu hưởng quyền dân sự và (3) Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự.

Trong đó, thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án giải quyết vụ, việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; hết thời hạn này mà chủ thể mới yêu cầu thì Tòa án không có nghĩa vụ giải quyết yêu cầu đó. Qua thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy, quy định về thời hiệu khởi kiện như trên, trong nhiều trường hợp không bảo đảm lẽ công bằng trong giải quyết vụ, việc dân sự và là căn cứ để Tòa án từ chối yêu cầu giải quyết các vụ, việc dân sự, vì thế nhiều tranh chấp trong nhân dân không được giải quyết triệt để, mâu thuẫn kéo dài, gây mất ổn định trong giao lưu dân sự, quyền lợi của người dân không được bảo vệ.

Dự thảo Bộ luật (Điều 164 – Điều 177, Điều 644) quy định về thời hiệu theo hướng: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định; hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu như quy định hiện hành, tòa án vẫn phải thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự.

7. Về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác

Bộ luật dân sự hiện hành (Điều 168) quy định “việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định này được coi là chưa tách bạch được giữa thời điểm giao dịch có hiệu lực (thời điểm các bên thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình) với thời điểm xác lập quyền đối với tài sản là đối tượng của giao dịch và thời điểm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba...

Dự thảo Bộ luật (Điều 179) quy định:

 1. Việc xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác.

Thời điểm tài sản được chuyển giao được hiểu là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản.

2. Trường hợp tài sản đã được chuyển giao trước thời điểm hợp đồng được giao kết thì quyền sở hữu và vật quyền khác được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác.

3. Trường hợp luật quy định việc chuyển giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.

4. Quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác tại khoản 1, 2 và 3 của Điều này cũng được áp dụng để xác định hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba”.

8. Về hình thức sở hữu

Bộ luật Dân sự hiện hành quy định 6 hình thức sở hữu là: (1) sở hữu nhà nước; (2) sở hữu tập thể; (3) sở hữu tư nhân; (4) sở hữu chung; (5) sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (6) sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Dự thảo Bộ luật (Điều 306) quy định hai phương án về hình thức sở hữu, cụ thể:

- Phương án 1, hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự bao gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.

- Phương án 2, hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự bao gồm: sở hữu riêng và sở hữu chung. Trong đó, sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

9. Về lỗi trong trách nhiệm dân sự

Bộ luật Ddân sự hiện hành (Điều 308) quy định về lỗi trong trách nhiệm dân sự theo hướng “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Dự thảo Bộ luật (Điều 376) quy định theo hướng, cá nhân, pháp nhân không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp họ chứng minh được việc không thực hiện đúng nghĩa vụ là do sự kiện bất khả kháng, do người bị vi phạm hoàn toàn có lỗi hoặc do các bên thỏa thuận.

10. Về điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi

Bộ luật Dân sự hiện hành không quy định tòa án có quyền điều chỉnh hợp đồng của các bên khi hoàn cảnh thay đổi. Điều này thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối quyền tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể trong hợp đồng.

Dự thảo Bộ luật (Điều 441) quy định theo hướng, khi hoàn cảnh thay đổi, trong các trường hợp luật định mà các bên không đạt được thoả thuận về việc điều chỉnh hợp đồng thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án có thể điều chỉnh hợp đồng để phân chia cho các bên các thiệt hại và lợi ích phát sinh từ việc thay đổi hoàn cảnh một cách công bằng và bình đẳng. Tuỳ theo từng trường hợp, toà án có thể buộc bên từ chối đàm phán hoặc phá vỡ đàm phán một cách không thiện chí phải bồi thường thiệt hại.

 ANH PHƯƠNG

Tin cùng chuyên mục