Khi thể chế trở thành động lực của đổi mới

Những ngày này, không khí chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đang lan tỏa khắp nơi. Từ các hội nghị góp ý văn kiện đến những cuộc trao đổi giữa cán bộ, đảng viên và người dân đều nổi bật lên một mối quan tâm chung: làm sao để đất nước phát triển nhanh hơn, mạnh hơn nhưng vẫn bền vững, ổn định và hài hòa.

Trong dòng suy tư ấy, cụm từ “xây dựng và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước” được nhắc đến nhiều, không chỉ như một định hướng chính trị mà còn là một khát vọng phát triển.

$1d.jpg
Vườn quốc gia Côn Đảo (TPHCM) vừa đạt Danh lục Xanh các khu bảo tồn. Ảnh: QUANG VŨ xemptyz

Nền tảng giúp kết nối ba trụ cột

Thể chế - nghe qua tưởng chừng khô khan nhưng thực ra lại hiện diện trong mọi hoạt động của đời sống. Đó là cách Nhà nước tổ chức quản lý, là khung pháp lý điều hành xã hội, là cơ chế giúp các nguồn lực được vận hành đúng hướng, đúng luật, đúng lương tâm. Khi thể chế vận hành thông suốt, người dân yên tâm làm ăn, doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, bộ máy nhà nước minh bạch và hiệu quả hơn. Đó chính là nền tảng của một quốc gia phát triển bền vững. Trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV, Đảng ta xác định rõ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước”. Đây không chỉ là sự tiếp nối tư duy Đổi mới, mà còn là bước phát triển mới về nhận thức. Theo nhiều nhận định của các chuyên gia, thể chế phát triển nhanh, bền vững chính là nền tảng giúp kết nối ba trụ cột của mô hình phát triển Việt Nam: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khi 3 trụ cột ấy đồng bộ, minh bạch và có trách nhiệm giải trình, đất nước sẽ có nền tảng vững vàng cho sự phát triển dài lâu.

Nhìn lại chặng đường gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn: kinh tế tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được nâng lên, vị thế đất nước ngày càng được khẳng định. Nhưng bên cạnh đó, cũng còn không ít “điểm nghẽn” về thể chế. Có những quy định chưa theo kịp thực tiễn, có chính sách còn chồng chéo, có lĩnh vực đổi mới nhanh nhưng khung pháp lý lại chậm. Chính vì thế, dự thảo văn kiện lần này đặt thể chế lên vị trí trung tâm vừa là điều kiện, vừa là động lực cho giai đoạn phát triển mới, như có một quan điểm cho rằng: “một thể chế mạnh là thể chế biết đi trước, dẫn dắt thay vì chạy theo thực tiễn”. Thật vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, nếu thể chế chậm hơn thực tế, chúng ta sẽ luôn phải “hợp thức hóa cái đã rồi”. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là thể chế phải chủ động dự báo, phải đủ linh hoạt để nắm bắt cơ hội, nhưng cũng đủ chặt chẽ để kiểm soát rủi ro.

Động lực cho phát triển nhanh và bền vững

Phát triển nhanh mà thiếu bền vững có thể khiến đất nước rơi vào vòng xoáy tăng trưởng ngắn hạn; còn phát triển bền vững mà thiếu tốc độ lại dễ bị tụt hậu. Phát triển nhanh là yêu cầu của hội nhập, còn phát triển bền vững là yêu cầu của tương lai. Do đó, sự kết hợp giữa “nhanh” và “bền vững” là thách thức nhưng cũng là bản lĩnh của Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó cũng là lý do thể chế hiện nay phải được thiết kế vừa để mở cửa thu hút đầu tư, đổi mới sáng tạo, vừa để bảo vệ môi trường, gìn giữ công bằng xã hội và bản sắc văn hóa dân tộc.

$3b.jpg
Đại biểu dự Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ nhất thảo luận tại tổ góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. Ảnh: Hoàng Hùng

Trong kinh tế, thể chế cần tiếp tục hoàn thiện các loại thị trường từ vốn, đất đai, lao động đến khoa học - công nghệ. Khi các thị trường này vận hành minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, nguồn lực sẽ được phân bổ hiệu quả, giảm dần cơ chế “xin - cho”, tạo động lực cho doanh nghiệp và người lao động. Một thể chế tốt là thể chế để người dân và doanh nghiệp yên tâm sáng tạo, thay vì phải đi “xin cơ hội” phát triển. Hay như trong xã hội, thể chế bền vững là thể chế biết quan tâm đến con người, như một quan điểm cho rằng: “Phát triển bền vững là không để ai bị bỏ lại phía sau.” Điều đó có nghĩa, mỗi chính sách phát triển phải được đánh giá cả về hiệu quả kinh tế lẫn tác động xã hội. Khi người dân được hưởng lợi công bằng, khi an sinh được bảo đảm, lòng tin sẽ trở thành nguồn lực vô hình thúc đẩy đất nước đi xa hơn.

Trong lĩnh vực văn hóa, thể chế phát triển không thể chỉ ở phạm vi quản lý, mà phải khơi dậy, nuôi dưỡng những giá trị tốt đẹp của dân tộc: cần cù, sáng tạo, nhân ái và tự cường. Nhiều học giả đã khẳng định: “thể chế văn hóa là gốc của phát triển bền vững”, bởi không có nền tảng văn hóa, mọi thành tựu kinh tế đều thiếu vững chắc.

Và cuối cùng, một thể chế mạnh còn đòi hỏi bộ máy công quyền tinh gọn, hiệu quả và đội ngũ cán bộ liêm chính, trách nhiệm. Pháp luật dù hoàn thiện đến đâu, nếu người thực thi không gương mẫu, không đặt lợi ích chung lên trên thì thể chế vẫn có thể bị méo mó. Do đó, việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và nâng cao năng lực quản trị quốc gia chính là phần cốt lõi của quá trình hoàn thiện thể chế.

Có thể nói, xây dựng và hoàn thiện thể chế không chỉ là việc của Trung ương hay Chính phủ, mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Khi người dân được tham gia góp ý, phản biện, giám sát, thể chế sẽ ngày càng gần dân, vì dân hơn. Khi doanh nghiệp được bảo vệ và khuyến khích sáng tạo, nền kinh tế sẽ năng động hơn. Khi đội ngũ cán bộ liêm chính, trách nhiệm thì mọi chính sách đều có thể đi vào cuộc sống. Thể chế chính là nền móng của quốc gia. Muốn đi nhanh, phải có thể chế khuyến khích sáng tạo. Muốn đi xa, phải có thể chế bảo đảm công bằng, nhân văn. Muốn đi vững, thể chế ấy phải được xây dựng trên niềm tin của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, với tầm nhìn chiến lược và khát vọng Việt Nam hùng cường, đang gửi đến toàn xã hội một thông điệp mạnh mẽ: phát triển phải toàn diện, đồng bộ, bền vững vì hạnh phúc của nhân dân hôm nay và tương lai của đất nước mai sau.

Tin cùng chuyên mục