Cấu trúc hệ thống giáo dục - Cần thay đổi

Theo nhiều nhà giáo dục, việc đổi mới cơ bản, toàn diện GD-ĐT phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, quản lý. Nhưng để đổi mới một cách đúng đắn phải bắt đầu từ công việc mang tính cơ bản là xem xét và thay đổi cấu trúc của hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam. Thiếu một cấu trúc hợp lý, việc đổi mới giáo dục sẽ tiếp tục mang tính chắp vá. Không hẹn mà gặp, khá nhiều vị giáo sư, chuyên gia đầu ngành cho rằng, cần thay đổi cấu trúc của hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam hiện nay.
Cấu trúc hệ thống giáo dục - Cần thay đổi

Theo nhiều nhà giáo dục, việc đổi mới cơ bản, toàn diện GD-ĐT phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, quản lý. Nhưng để đổi mới một cách đúng đắn phải bắt đầu từ công việc mang tính cơ bản là xem xét và thay đổi cấu trúc của hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam. Thiếu một cấu trúc hợp lý, việc đổi mới giáo dục sẽ tiếp tục mang tính chắp vá. Không hẹn mà gặp, khá nhiều vị giáo sư, chuyên gia đầu ngành cho rằng, cần thay đổi cấu trúc của hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam hiện nay.

  • Nên rút ngắn hệ phổ thông

Theo TS Lê Trường Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội ĐH-CĐ ngoài công lập, giáo dục đào tạo Việt Nam sau nhiều thay đổi đang có cấu trúc/kiến trúc chắp vá “1421” (không tính nhà trẻ mẫu giáo): 1 tiểu - 4 trung - 2 cao - 1 đại.

“1 tiểu” là 1 hệ tiểu học, “4 trung” là 4 hệ trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề, “2 cao” là 2 hệ cao đẳng nghề và cao đẳng chuyên nghiệp, “1 đại” là 1 hệ đại học - bao gồm cả đại học và sau đại học.

“Tôi cho rằng, kiến trúc mang tính chắp vá này cần phải thay đổi cơ bản đáp ứng 5 mục tiêu: phù hợp với hội nhập quốc tế, tương thích với nhiều quốc gia, đảm bảo tính chuyển đổi, sử dụng được tài nguyên học tập quốc tế và trao đổi giáo dục quốc tế; định hướng nghề nghiệp, phân luồng nghề nghiệp sớm, giải quyết tâm lý xã hội đang đổ xô chen chúc vào cửa đại học; liên thông các cấp học trong nước mềm dẻo, dễ dàng; giảm thời gian vào đời, hướng tới việc học suốt đời; quản lý về mặt nhà nước thuận lợi, không chồng chéo”, TS Lê Trường Tùng nói.

TS Lê Trường Tùng đề xuất một phương án kiến trúc đáp ứng được cả 5 mục tiêu trên là kiến trúc “1111” thay cho kiến trúc “1421” hiện nay: 1 tiểu - 1 trung - 1 cao - 1 đại. Trong đó, “1 tiểu” là 1 cấp tiểu học, thời gian là 5 năm; “1 trung” là 1 cấp trung học, thời gian là 4 năm. “1 cao” là cao đẳng, thời gian học 3 năm. Không phân biệt 2 hệ cao đẳng nghề và cao đẳng “không nghề”. “1 đại” là đại học, thời gian học 3 - 4 năm thay cho 4 - 5 năm hiện nay.

Như vậy, học xong 9 năm có bằng tốt nghiệp văn hóa phổ thông, đây là mô hình được áp dụng rộng rãi tại các nước khối thịnh vượng chung. THPT được thay bằng 2 năm “dự bị đại học” dành cho những ai mong muốn học đại học, 2 năm dự bị này học theo định hướng chuyên môn qua các môn tự chọn để sau đó lấy kết quả xét tuyển hoặc thi tuyển vào các trường đại học, và cũng để giảm bớt thời lượng học đại học sau này.

Trung học chuyên nghiệp/trung học nghề được gộp chung và đưa thành giai đoạn đầu (1,5 năm) của cao đẳng. Học sinh học xong lớp 9 (xong phổ thông) có thể phân luồng học cao đẳng luôn thay cho hướng học dự bị đại học. Học xong giai đoạn đầu 1,5 năm của cao đẳng (trung cấp trước đây) được nhận bằng cao đẳng và có thể đi làm sớm, hoặc học thêm giai đoạn 2 của cao đẳng (1,5 năm) để nhận bằng cao đẳng nâng cao. Có bằng cao đẳng nâng cao có thể học tiếp liên thông đại học (2 năm) nếu muốn hoàn thiện học vấn.

“Nếu hiện nay xong lớp 12 mới vào đại học, trượt đại học mới vào cao đẳng thì theo mô hình mới “1111”, sau 9 năm có nhánh rẽ cao đẳng”, TS Tùng nêu quan điểm. Đồng thời cho biết, thời gian học 3 - 4 năm sẽ thay cho 4 - 5 năm hiện nay, việc giảm 1 năm học đại học nhờ đã có kiến thức trong 2 năm học dự bị đại học. Với sinh viên có bằng cao đẳng nâng cao, thời gian học liên thông đại học là 2 năm bổ sung. Như vậy, tuổi để có bằng phổ thông là 15 (trước đây là 18), tuổi có bằng cao đẳng/cao đẳng nâng cao là 17 - 18 (trước đây là 21), tuổi có bằng đại học là 20 - 21 (trước đây là 22-23).

“Thanh niên vào đời sớm hơn phù hợp với tiêu chí sinh học giới trẻ hiện nay, việc giảm thời gian học ngoài cái lợi là giảm chi phí xã hội còn tăng được thời gian cống hiến của cá nhân, và đất nước có thêm nguồn lao động trẻ”, TS Tùng nói.

Sinh viên Trường ĐH Kỹ thuật Công nghệ TPHCM học tập trong thư viện. Ảnh: MAI HẢI

Sinh viên Trường ĐH Kỹ thuật Công nghệ TPHCM học tập trong thư viện. Ảnh: MAI HẢI

  • Chương trình giáo dục cần phù hợp

Tuy không hoàn toàn trùng khớp ý kiến với TS Lê Trường Tùng, nhưng có khá nhiều chuyên gia giáo dục cũng chung quan điểm phải rút ngắn thời gian của hệ phổ thông, không kéo dài 12 năm như hiện nay.

Nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Trần Xuân Nhĩ cũng cho rằng, phải đổi mới quan niệm, coi giáo dục phổ thông chỉ là công cụ, để học sinh ra đời có thể học tiếp. “Tiểu học không cần nhiều môn, phổ thông rút ngắn còn 11 lớp. Hệ đại học cũng không nhất thiết phải 4 năm, kiến thức nào không cần thì bỏ, và học tín chỉ cho phép năm kết thúc. Như vậy, nếu làm tốt thì đại học chỉ cần 3 năm, phổ thông rút một năm, học sinh có thể ra đời năm 20 tuổi. Với tư duy bây giờ, giới trẻ thông minh hơn ngày xưa nhiều lắm, chúng hoàn toàn có thể ra đời sớm, tiết kiệm cho xã hội 2 năm”, PGS Trần Xuân Nhĩ nói.

GS Hồ Ngọc Đại cũng có quan điểm hệ phổ thông nên rút xuống còn 11 năm. “Gọi là phổ thông nhưng có 9 năm bắt buộc, đối với xã hội hiện đại thì 9 năm là đủ. Trẻ con 16 tuổi bây giờ khác 16 tuổi ngày trước. Học sinh ra học ngoài đời càng sớm càng tốt nhưng sớm ở mức độ như thế nào để an toàn thì 9 năm là đủ. Học xong 9 năm học sinh có thể đi ra học nghề, nhà trường vẫn để cho 2 năm học phổ thông để các em vào đại học nếu có nhu cầu. Ở đây phải hiểu, không phải tất cả 100% học sinh đi học là ở hệ 11 năm, có học sinh chỉ học 9 năm là đủ, số còn lại chỉ 30% - 40% học thêm 11 năm”, GS Hồ Ngọc Đại nói.

GS Nguyễn Minh Thuyết cũng cho rằng, việc kéo dài thời gian học phổ thông tới 12 năm hiện không phù hợp với hoàn cảnh của đa phần người học và điều kiện kinh tế của đất nước nói chung. “Nên thiết kế hệ thống này theo công thức 9 + 2, tức là đại bộ phận học sinh chỉ học chương trình giáo dục cơ bản 9 năm; sau đó, tùy sở nguyện, sở trường và kết quả học tập mà vào trường trung học nghề hoặc trung học phổ thông 2 năm với chương trình tự chọn gồm các môn phục vụ chuyên ngành tương lai do người học tự xác định”, GS Thuyết nói.

Ngược lại với quan điểm rút ngắn thời gian học phổ thông, GS Nguyễn Lộc, Viện phó Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho rằng giáo dục Việt Nam đang quá tải. “12 năm phổ thông còn quá tải, nếu giảm còn 10 năm sẽ thế nào? Học sinh được học nhiều hơn thì sẽ được kết quả tốt hơn”, GS Nguyễn Lộc nêu quan điểm.

Thực tế cho thấy, hiện nội dung giảng dạy ở phổ thông còn ôm đồm, lặp đi lặp lại, nhiều kiến thức không cần thiết cho cuộc sống thực tiễn. Vì vậy, thời gian học phổ thông rút xuống còn bao nhiêu năm xét ở một góc độ nào đó cũng chính là việc sắp xếp nội dung, chương trình giáo dục ở phổ thông thế nào cho phù hợp. Và đó cũng là đòi hỏi bức thiết được đặt ra khi tiến hành đổi mới văn bản nền giáo dục. 

PHAN THẢO

Tin cùng chuyên mục