

Chúng tôi gọi ông một cách rất thân mật, kính mến “Chú Tư”. Ông có nhiều tên gọi cũng như nhiều bút danh, nhưng “chú Tư là thân tình, gần gũi nhất”. Đầu những năm 70 của thế kỷ XX, thời kỳ gian khó đầy thử thách của chiến tranh chống Mỹ, chúng tôi – một đội ngũ trí thức trẻ từ hậu phương lớn được vào chiến trường Nam bộ. Phạm Quang Nghị, Thanh Thảo, Lê Điệp, Cao Xuân Phách, Dương Trọng Dật, Lê Quang Trang, Nguyễn Văn Lịch, Trần Đức Cường… thỉnh thoảng rẽ rừng xăm xăm đến thăm và nói chuyện với chú Tư ở B30 giữa Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam, trong chiến khu.
Tin buồn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ban Dân vận Trung ương; Ban Tuyên giáo Trung ương; Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Thành ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ TP Hồ Chí Minh; Hội đồng Khoa học Xã hội TP Hồ Chí Minh; Quận ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ quận 3; Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ phường 7, quận 3; Quận ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ quận Tân Bình; Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ phường 13, quận Tân Bình và gia đình vô cùng thương tiếc báo tin: Đồng chí TRẦN BẠCH ĐẰNG (Tư Ánh) Sinh năm 1926, tại Hòa Thuận – Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, đã từ trần lúc 10 giờ 55 ngày 16-4-2007 (nhằm ngày 29-2 Âm lịch). Linh cữu quàn tại Nhà tang lễ thành phố – 25 Lê Quý Đôn, quận 3. Lễ viếng bắt đầu 15 giờ ngày 16-4-2007. Lễ truy điệu lúc 12 giờ 10 ngày 18-4-2007 (nhằm ngày 2-3 Âm lịch) (có vòng hoa luân lưu). Sau đó đưa đi an táng tại Nghĩa trang thành phố. |
Năm 1974, cùng với Lê Quang Trang, Đỗ Nam Cao, Thanh Thảo, Lê Điệp… xuống vùng ven Củ Chi, Trảng Bàng, tôi viết tập thơ “Vùng trắng nói”. Trước khi vào chiến dịch Hồ Chí Minh, tôi gởi chú Tư đọc. Sau đó cho đến ngày 15-5-1975, khi đất nước hòa bình, chú Tư nhắn tôi lại chơi và trả lại tập bản thảo mà tôi tưởng đã mất với dòng chữ “Được lắm mầy. Rất chiến tranh. Coi chừng Tây quá”. Tôi đã sửa chữa nhiều và cho đến bây giờ vẫn giữ tập thơ như một kỷ niệm đẹp nhất trong cuộc chiến và tình cảm của chú Tư.
Chúng tôi gắn bó máu thịt với Nam bộ. Nhiều người đã trưởng thành. Chú Tư vui. Niềm vui bắt nguồn từ ngày đầu chú Tư đón lớp trí thức trẻ Hà Nội vào chiến trường B2.
Năm ngoái, khi con cháu làm lễ thượng thọ 80, ông mời chúng tôi đến chơi. Ông theo dõi và quý trọng những cánh trí thức trẻ chúng tôi, nhưng ông chưa vui vì chúng tôi không có tác phẩm nào xứng đáng, coi được. “Ráng lên nghe mầy”, ông hay nói với chúng tôi như vậy. Lời nói của chú Tư kính mến. Chúng tôi chỉ là những nét nhỏ trong cuộc đời phong ba của ông. Nhưng chỉ với sự quan tâm ấy, chúng tôi cảm nhận ông là một người bạn lớn. Chúng tôi vẫn tốt, đó là điều cơ bản. Rồi chúng tôi và lớp trẻ kế cận sẽ có những tác phẩm “coi được” như chú Tư mong đợi. Ở chú Tư có cái uy dễ nể. Chú có mặt trong hầu hết các hoạt động văn hóa của thành phố. Chúng tôi nhận biết đàng sau cái tính “địa phương Nam bộ” là mong muốn văn hóa mình phải có bản sắc…
Cách nay một tuần, ông có gởi Báo SGGP một bài viết. Ông là một nhà báo xuất sắc. Ông viết cho tất cả các báo. Đối với Báo SGGP, bao giờ ông cũng gởi gắm những vấn đề lớn. Sau khi gởi tới Tổng Biên tập Dương Trọng Dật, ông điện thoại cho tôi, báo ông cóù gởi một bản khác đã sửa chữa kỹ, nhờ chuyển gấp tới Tổng biên tập. Có thể đây là bài báo cuối cùng của ông.
Con người làm việc như vậy, con người ấy để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu đậm không chỉ trong những vấn đề mà cả văn phong, nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý, nhà thơ Hưởng Triều, nhà báo, nhà văn hóa Trần Bạch Đằng… của chúng ta đã ra đi! Chú Tư của chúng tôi đã đi xa.
Vũ Khoa Vũ Ân Thy
*****
Tiểu sử
Đồng chí TRẦN BẠCH ĐẰNG (Tư Ánh), sinh năm 1926, tại Hòa Thuận – Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Tham gia cách mạng năm 1941, vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11-1943. Tháng 3-1945 làm Bí thư khu ngã 6 Chợ Lớn, kiêm Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Nam bộ. Tham gia cướp chính quyền tại Sài Gòn. Ngày đầu chống Pháp (23-9-1945) làm Chính trị viên bộ đội Bình Đăng. Năm 1946 Ủy viên Thường vụ Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn, phụ trách Tuyên huấn. Năm 1947 Trưởng ban Thanh vận Xứ ủy. Là đại biểu chính thức của Đảng bộ Nam bộ đi dự Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ 2 (1949), bị giặc bắt trên đường đi tại Dốc Mỏ (Nam Tuy Hòa), bị kết án tử hình, sau đó vượt ngục.
Năm 1950 Bí thư Đoàn Thanh niên cứu quốc Nam bộ, kiêm Phó ban Tuyên huấn Xứ ủy (Trung ương Cục). Chủ bút báo Nhân dân miền Nam và Chủ nhiệm tạp chí Việt Xô (với bút hiệu Trương Chí Công). Sau Hiệp định Genève, phụ trách Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam bộ. Năm 1960 Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam – phụ trách Thông tin – Văn hóa, kiêm Chủ tịch Hội đồng Văn học nghệ thuật giải phóng. Năm 1965 là Ủy viên Thường vụ Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định, Bí thư nội thành. Trong Tổng công kích Mậu Thân, Phó Bí thư Đảng ủy Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam, Bí thư Đảng ủy Quân sự thành phố. Năm 1970 là Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định.
Năm 1976, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1978, Phó ban Dân vận Trung ương. Năm 1981, công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương. Năm 1982 Chuyên gia công tác tư tưởng - văn hóa, viết báo, văn, nghiên cứu khoa học xã hội, giúp Trung ương và Chính phủ một số vấn đề về chiến lược tư tưởng, kinh tế xã hội.
Các tác phẩm chính: truyện có Bác Sáu Rồng, Chân dung một quản đốc, Ván bài lật ngửa (6 tập)…; thơ có Bài ca khởi nghĩa, Hành trình, Đất nước vào xuân…; chính luận có Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Người Công giáo Việt Nam, Hãy tin chúng tôi, Kẻ sĩ Gia Định…; kịch bản có Nửa tuần trăng kỳ lạ, Tình yêu và lời đáp, Ván bài lật ngửa, Hai Cũ… và chỉ đạo biên soạn Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Thường trực kiêm Tổng Biên tập Lịch sử Nam bộ kháng chiến. Là tác giả nhiều bài chính luận trên các báo.
Khen thưởng: - Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng; Huân chương Độc lập hạng 1; Huân chương Giải phóng hạng 1; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng 1; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng 1; Huân chương Đại đoàn kết dân tộc và nhiều huân huy chương khác.
Ban tổ chức lễ tang đồng chí Trần Bạch Đằng 1- Đồng chí Lê Thanh Hải, UV BCT, Bí thư Thành ủy, Trưởng ban |