Giữa cái khốc liệt thời đó, khó ai hình dung được rằng ở những nơi “xương trắng cài răng lược”, người ta vẫn hát, vẫn múa, vẫn dựng kịch… như một cách giữ lại phần người trong mỗi chiến sĩ.
Thường Tín - nơi người lính hóa thành nghệ sĩ
Từ gần 200 người lính vận tải, công binh, thanh niên xung phong, giao liên, cứu thương…, Cục Vận tải quân sự đã chọn ra những gương mặt “có máu nghệ thuật” để đưa về tập huấn, chuẩn bị thành lập các đội tuyên văn (các đội văn hóa, văn nghệ phục vụ công tác tuyên truyền lưu động) cho từng binh trạm.
Và chính trong những ngày tập huấn ấy, tôi gặp Phạm Lăng Quang - người sau này trở thành một trong những “ngôi sao sân khấu chiến trường” mà tôi vẫn nhớ mãi đến tận ngày nay.
Ngày đó, chúng tôi được đưa về tập huấn văn nghệ ở Thường Tín - thuộc tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Với lính Trường Sơn, được về hậu phương dù chỉ một ngày cũng đã là sung sướng.
Nhưng để biến những người lính vận tải thành… nghệ sĩ lại không hề đơn giản. Nhiều anh nghe nói tập hát, tập múa để thành nghệ sĩ đã sợ xanh mặt, đòi quay lại đơn vị ngay.
May thay, chúng tôi được tiếp xúc với những “bậc thầy” thực sự: các nghệ sĩ của Đoàn Văn công Tổng cục Hậu cần, Trường Nghệ thuật Quân đội, Nhà hát Kịch nói Trung ương, Nhà hát Chèo…
Và đặc biệt là những nghệ sĩ của Đội Tuyên văn Cục Vận tải quân sự, những người đã nhiều năm sống cùng lính vận tải, hiểu từng hơi thở của tuyến đường.
Trong những gương mặt ấy, Phạm Lăng Quang xuất hiện không ồn ào, nhưng đầy sức hút. Một người lính lái xe cao gầy, đôi mắt sáng, nụ cười hào hoa và cây đàn ghita đã sờn vải đeo bên hông như vật bất ly thân.
Ngày đó, chúng tôi hay đùa gọi anh là “Lăng Quăng”, một phần vì cái tên dễ chọc nhưng chủ yếu là bởi sự dí dỏm của anh khiến cả tiểu đội cười vang bất cứ nơi nào anh xuất hiện với cái mũi khoằm khoằm.
Từ tay lái lụa đến cây bút sân khấu
Lăng Quang thuộc diện “con nhà Hà Nội”. Anh nhập ngũ rất sớm, được đào tạo lái xe hỏa tuyến rồi đi thẳng vào các cung đường đạn lửa miền Trung.
Tay lái vững, gan lì, từng vài lần thoát chết trong gang tấc. Vậy mà trong hành trang của anh, lúc nào cũng có cây đàn ghita và cuốn sổ ghi chép thơ văn.
Cục Vận tải tuyển người cho đội Tuyên văn - thế là chàng lái xe ôm đàn được đưa về, trở thành một “hạt giống quý”. Không ai nghĩ người lính vận tải dạn dày khói lửa và say mê những con đường ám khói đạn bom này lại có thể đứng trên sân khấu hát tốp nam, diễn tiểu phẩm, rồi viết luôn cả kịch.
Kịch của anh có cái tếu táo của lính đường 559 (Đường mòn Hồ Chí Minh), có tiếng cười xoa dịu nỗi lo âu, có câu chuyện về những đồng đội ngã xuống, nhưng đặc biệt là những chiến công chói sáng.
Những vở của anh như Vầng trăng trên trọng điểm, Con đường và đồng đội… đều mang dấu ấn rất riêng: mộc mạc, chân thực và đầy sinh khí. Lính vận tải, nhân dân ở các nơi đóng quân đều mê kịch của anh, cứ nghe bảo có kịch của Lăng Quang là dân, bộ đội kéo đến xem đông nghẹt.
Đến mức ngày ấy có cả câu vè của lính nhắc đến các anh: “Trần Nhương, Xuân Huấn, Lăng Quang/ Có ba chàng ấy rộn ràng khắp nơi”.
Tôi may mắn thân anh từ rất sớm. Một phần vì nghệ thuật kết nối gia đình chúng tôi: mẹ tôi là ca sĩ, vợ anh là em nghệ sĩ Quý Dương - người bạn thân của mẹ. Nên chỉ sau vài buổi tập, tôi đã được anh kéo về nhà ăn cơm, nghe anh gảy đàn hát ngay trong căn nhà khang trang ở ngõ Lương Sử B gần Văn Miếu (nay là phường Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội).
Giữa bom đạn, tình cảm ấy quý giá biết bao. Anh coi tôi như em, dẫn tôi đi khắp nơi, kể chuyện đời lính, chuyện sân khấu, chuyện tình yêu thời chiến… Hình ảnh anh ôm cây đàn ghita hát cho tôi nghe giữa cái sân gạch cũ ở Hà Nội ngày ấy vẫn còn nguyên trong ký ức.
Con đường và đồng đội - vở diễn mang dấu ấn một thế hệ
Kết thúc đợt tập huấn, Đội Tuyên văn binh trạm 13 chúng tôi tôi trở lại chiến trường cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng biểu diễn phục vụ bộ đội. Ít lâu sau, tôi được gọi về Trại sáng tác của Tổng cục Hậu cần và ở đó, tôi lại được gặp anh Lăng Quang.
Cũng tại trại sáng tác này, tôi được chứng kiến anh Lăng Quang hoàn thiện tác phẩm Con đường và đồng đội - một kịch bản khiến cả trại sáng tác đọc xong đều lặng đi.
Bởi đó không chỉ dừng lại ở một vở kịch, trong đó còn có hình ảnh đời sống của hàng vạn người lính vận tải trên tuyến đường Trường Sơn.
Vở diễn lập tức được dựng bởi Đoàn Kịch nói Tổng cục Hậu cần và do chính Đoàn trưởng của đoàn - đạo diễn Văn Thơm cầm trịch, diễn viên Duy Hậu - rất nổi tiếng ở Nhà hát Tuổi Trẻ khi ấy cũng là một người lính lái xe - thủ vai chính.
Vở đã diễn hàng trăm buổi và lần nào khi tấm màn nhung khép lại, khán giả, nhất là đội ngũ lính vận tải, công binh, thanh niên xung phong… đều đứng dậy vỗ tay vang rền.
Từ vở kịch đó, tên tuổi biên kịch Phạm Lăng Quang được đông đảo khán giả biết đến, được xem là biểu tượng sáng ngời của sân khấu về người lính vận tải và hậu cần.
*
Sau ngày hòa bình, thống nhất, các đội tuyên văn hoàn thành nhiệm vụ. Anh Lăng Quang chuyển về công tác ở Đoàn xe 12 - Bộ Ngoại giao.
Cuộc sống thời bình nhiều bộn bề, công việc chuyên môn, gia đình cuốn anh theo những nỗi lo mới, gác lại niềm đam mê nghệ thuật. Và sân khấu- thứ đã từng là cuộc đời thứ hai của anh, cứ xa dần cho đến ngày anh rời xa cõi tạm.
Nhưng với những người lính vận tải chiến trường chúng tôi, ký ức về anh vẫn vẹn nguyên: đẹp trai, hào hoa, thông minh, dí dỏm và tình nghĩa. Và trên hết, những vở diễn của anh vẫn là kỷ vật tinh thần vô giá của chúng tôi.
Chỉ cần nhắc ba chữ “Lăng Quang viết”, là bao nhiêu ký ức lại ùa về: những đêm sân kho mở rộng, ánh đèn măng-xông vàng vọt, tiếng cười át tiếng bom, và cả những giọt nước mắt rơi lặng giữa màn đêm Trường Sơn.
Anh đã có những năm tháng nghệ thuật rực sáng, một người lính - nghệ sĩ đúng nghĩa: dạn dày trong chiến tranh, tài hoa trên sân khấu và chân thành trong tình người.