Ngày 8 tháng 3 năm nay là ngày kỷ niệm 100 năm ngày Quốc tế Phụ nữ và 1.970 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ, ai đến viếng bức tường Điện Kremli (Mátxcơva) đều phải chú ý đến ngôi mộ không có ảnh, ngôi mộ của Clara Zetkin. Bà sinh năm 1857 và đã mất năm 1933. Đó là một phụ nữ người Đức, đã hy sinh cả cuộc đời vì sự nghiệp đấu tranh để giải phóng phụ nữ.
Theo sáng kiến của bà Clara Zetkin, Hội nghị Phụ nữ Quốc tế Dân chủ được tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch) năm 1910, đã thông qua quyết định lấy ngày Quốc tế Phụ nữ là ngày 8 tháng 3 hàng năm. Đó là ngày thúc đẩy cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ trên toàn thế giới.
Ngày Quốc tế Phụ nữ 8 tháng 3 hàng năm còn là ngày tôn vinh giới nữ. Phụ nữ có thiên chức làm mẹ, phải mang nặng, đẻ đau, nuôi con nhỏ dại. Nỗi khổ này không thể giải phóng bằng cách mạng xã hội mà chỉ được bù đắp bằng cách làm cho mọi người trong xã hội có ý thức tôn vinh, quý trọng giới nữ đặc biệt là tôn vinh người mẹ. Nhà văn Maxim Gorki đã ca ngợi người phụ nữ, người mẹ thật trân trọng: “... Vinh quang thay người phụ nữ! Người mẹ! Bộ ngực của người đã nuôi sống nhân loại. Tất cả những gì tươi đẹp trong con người và cuộc đời đều do ánh sáng mặt trời và sữa mẹ tạo nên...!”.
Về nguồn gốc bà mẹ đầu tiên, dân Việt ta có truyền thuyết rất đặc biệt. Bà Tổ mẫu của dân ta là bà Âu Cơ thuộc dòng Tiên, tức là một phụ nữ rất đẹp, đầy tài hoa. Mẹ Âu Cơ đã sống bình đẳng cùng chồng thuộc dòng dõi Long Quân trong trách nhiệm mỗi người dắt dẫn một phần nửa số các con để đi dựng nước.
Phải chăng từ văn hóa truyền thuyết đó mà phụ nữ Việt Nam ta rất yêu nước, có lòng tự tin, tự hào rất mạnh và trong quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước đã xuất hiện rất nhiều vị nữ anh hùng, rất nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng. Nổi lên, vào năm 40 sau Công nguyên, chúng ta có Hai Bà Trưng, đã được dân ta tôn vinh vào ngày 8 tháng 3 hàng năm, trùng hợp với ngày Quốc tế Phụ nữ.
Chuyện về Hai Bà, sử chép rằng, ở quận Giao Chỉ có viên Thái thú, vị quan cai trị thuộc triều đình phong kiến nhà Đông Hán phương Bắc tên là Tô Định, rất tàn ác. Nhiều cuộc đấu tranh do các vị quý tộc bản địa lãnh đạo chống lại, nhưng đều bị Tô Định và chính quyền đô hộ đàn áp đẫm máu. Thi Sách, con trai của một Lạc tướng của ta ở quận Châu Diên (Hà Tây) cùng vợ là Trưng Trắc, con gái một Lạc tướng của ta ở quận Mê Linh (Vĩnh Phúc) đã chiêu mộ nhiều binh sĩ cùng tính kế chống lại Tô Định. Kế hoạch bị lộ, Tô Định đã giết chết Thi Sách. Tháng 3 năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị tiếp tục phất cao cờ nghĩa, đem quân đánh Tô Định. Cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Hát Môn (cửa sông Hát, huyện Phúc Thọ, Hà Tây).
Được các Lạc tướng, Lạc quân khắp nơi hưởng ứng tiến công, Tô Định hoảng sợ phải cắt tóc, cạo râu, lẩn trốn về Quảng Đông. Quân của Hai Bà đã đánh chiếm Long Biên và 65 thành. Bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị được các Lạc tướng suy tôn làm vua gọi là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh (nay là làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên).
Mùa hè năm 43 sau Công nguyên, vua nhà Đông Hán sai Mã Viện đưa 2 vạn quân, 2.000 thuyền bè với 1 đạo thủy quân toàn người Hoa Nam (Trung Quốc) dễ thích nghi với thủy thổ nước ta cùng những viên tướng giàu kinh nghiệm, đã tấn công vào quân đội của Hai Bà Trưng. Cuộc kháng chiến đã diễn ra rất ác liệt ở vùng Lãng Bạc, Hồ Tây, Cấm Khê (vùng chân núi Ba Vì) nhưng quân của Hai Bà bị đánh bại. Hai Bà chạy đến sông Hát Giang (sông Đáy) thì nhảy xuống sông tự tử. Theo cờ nghĩa của Hai Bà, cuộc kháng chiến kéo dài đến cuối năm (43 sau Công nguyên) gây cho địch rất nhiều tổn thất. Mã Viện lúc rút quân về Bắc, đi có 10 phần về chỉ còn 4, 5 phần.
Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo, đã lật đổ chính quyền đô hộ và lập được chính quyền mới làm cho nhân dân Âu Lạc được sống trong một đất nước độc lập tự chủ trong gần 2 năm. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà dù chỉ đạt được kết quả như vậy, nhưng có ý nghĩa thời đại to lớn. Nó định hướng mở đường cho công cuộc giành lại độc lập của nhân dân ta sau đó, trong suốt hơn một nghìn năm bị giặc phong kiến phương Bắc đô hộ.
Công cuộc lãnh đạo của Đảng ta để giành độc lập cho dân tộc nói chung và nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vang lên lời kêu gọi của Bác Hồ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” cũng thể hiện ý chí quyết tâm đấu tranh bằng mọi giá để giành độc lập tự do tự chủ. Đó là truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta, mở đầu với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.
Kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ và kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đều trong ngày 8 tháng 3 là một sự trùng hợp rất hay. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có Bác Hồ giáo dục, chẳng những luôn quý trọng noi gương các vị nữ anh hùng trong lịch sử dân tộc mà luôn cho rằng phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số, không có phụ nữ tham gia đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thành công. Trong đường lối chủ trương của Đảng, vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, luôn gắn liền với giải phóng phụ nữ.
Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, ở Điều 9 ghi rõ: “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện”.
Tiếp theo sau này Quốc hội còn ban hành cụ thể Luật Hôn nhân và gia đình.
Tưởng nhớ Hai Bà Trưng, hai vị nữ đại anh hùng của Việt Nam và kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ, nhìn chung đều là thể hiện ý thức tôn vinh phụ nữ. Đó là nét tuyệt đẹp về văn hóa.
Trần Trọng Tân