Tư vấn Kinh tế - Pháp luật

Đại diện Công ty S - Vũng Tàu

° Công ty cổ phần S của chúng tôi được Công ty TNHH T đề nghị chúng tôi đã đứng ra vay vốn giúp cho Công ty T ở Ngân hàng Agribank. Việc vay vốn được bảo đảm bằng tài sản của bên thứ 3 là giá trị quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất của vợ chồng ông D và bà L. Hợp đồng thế chấp và Hợp đồng tín dụng đều được công chứng vào ngày 9-1-2011. Tuy nhiên, ngày 3-1-2011 trước đó, ông D và bà L đã viết Giấy thỏa thuận cho Công ty T mượn Giấy CNQSD đất và tài sản gắn liền với đất để thế chấp vay vốn ở một ngân hàng khác. Đến thời hạn thanh toán, công ty chúng tôi không thanh toán số nợ vay giùm Công ty T nên ngân hàng đã khởi kiện công ty chúng tôi ra tòa. Bản án sơ thẩm tuyên Công ty S phải thanh toán tiền vốn vay và tiền lãi cho ngân hàng, nếu Công ty L không thanh toán được thì ngân hàng có quyền phát mãi tài sản thế chấp bảo lãnh để thu hồi nợ. Tuy nhiên, Bản án phúc thẩm thì lại tuyên Công ty L phải dùng tài sản của mình trả nợ vì Hợp đồng bảo lãnh ngày 9-1-2011 vô hiệu do trước đó Giấy CNQSD đất và tài sản gắn liền với đất của vợ chồng ông D và bà L đã cho Công ty T mượn thế chấp vay vốn ngân hàng rồi. Xin hỏi: Bản án của cấp nào đúng? Công ty chúng tôi phải làm gì để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình? (Đại diện Công ty S - Vũng Tàu)

° Vì công ty không cho chúng tôi biết rõ Thỏa thuận lập ngày 3-1-2011 về việc vợ chồng ông D và bà L cho Công ty T mượn Giấy CNQSD đất và quyền sở hữu nhà ở có được thực hiện trên thực tế hay không và nếu có thực hiện thì vào thời điểm nào nên có các trường hợp sau có thể xảy ra:

1. Nếu ngày 9-1-2011 khi vợ chồng ông D và bà L ký hợp đồng bảo lãnh vay vốn bằng việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở thì Thỏa thuận lập ngày 3-1-2011 đã được thực hiện trên thực tế (nghĩa là Giấy CNQSD đất và quyền sở hữu nhà ở đã được giao cho Công ty T thế chấp tại một ngân hàng khác vay vốn và việc vay vốn đã thực hiện) thì Hợp đồng bảo lãnh ngày 9-1-2011 vô hiệu (vì tài sản thế chấp đã được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ khác).

Như vậy, Công ty S phải dùng tài sản của mình để thanh toán nợ cho Ngân hàng Agribank. Tuy nhiên, khả năng này là không thể xảy ra vì nếu không có Giấy CNQSD đất và quyền sở hữu nhà ở thì ông D và bà T không thể công chứng hợp đồng bảo lãnh tại công chứng được (trừ khi giá trị tài sản thế chấp lớn đủ để bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ và được ngân hàng cho vay cũng như Công ty S đồng ý).

Trong trường hợp tại thời điểm ngày 9-1-2011, khi vợ chồng ông D và bà L ký hợp đồng bảo lãnh vay vốn bằng việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở Thỏa thuận lập ngày 3-1-2011 đã được thực hiện trên thực tế, nghĩa là vợ chồng ông D. bà L. không cung cấp được Giấy CNQSD đất và quyền sở hữu nhà ở cho công chứng viên nhưng công chứng viên vẫn công chứng hợp đồng hợp đồng bảo lãnh thì hợp đồng bảo lãnh này sẽ bị vô hiệu và lỗi gây thiệt hại cho Công ty S trước hết thuộc về công chứng viên. Công ty S có thể khởi kiện công chứng viên đã trực tiếp công chứng hợp đồng bảo lãnh vay vốn yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Công chứng năm 2006.

2. Trường hợp ngày 9-1-2011 vợ chồng ông D và bà L ký hợp đồng bảo lãnh vay vốn bằng việc thế chấp giá trị quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở mà Thỏa thuận lập ngày 3-1-2011 chưa được thực hiện trên thực tế (nghĩa là Giấy CNQSD đất và quyền sở hữu nhà ở vẫn do vợ chồng ông D bà L giữ) thì Hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực, Giấy CNQSD đất đã được giao cho Ngân hàng Agribank giữ để bảo lãnh vay vốn. Như vậy, khi Hợp đồng bảo lãnh ngày 9-1-2011 được công chứng thì Thỏa thuận lập ngày 3-1-2011 không có hiệu lực. Trong trường hợp này nếu Công ty L không thanh toán được thì ngân hàng có quyền phát mãi tài sản thế chấp bảo lãnh để thu hồi nợ.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 279 Bộ Luật TTDS năm 2004 thì bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án nên trong bất cứ trường hợp nào Công ty S chỉ có thể đề nghị kháng nghị bản án theo thủ tục giám đốc thẩm để xem xét lại bản án phúc thẩm. Thẩm quyền kháng nghị theo quy định tại Điều 285 Bộ Luật TTDS năm 2004.

BÀNH QUỐC TUẤN (Khoa Luật - ĐH Kinh tế Luật)

Bạn đọc có thắc mắc về các vấn đề kinh tế - pháp luật, vui lòng gởi câu hỏi cho chúng tôi qua địa chỉ: Mục Tư vấn Kinh tế - Pháp luật, Ban Kinh tế, Báo Sài Gòn Giải Phóng, 399 Hồng Bàng, phường 14, quận 5, TPHCM; email: hanni@sggp.org.vn; ĐT: (08)39294072 – 0903.975323.

Tin cùng chuyên mục