Nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Công đoàn VN

Tưởng nhớ anh Nguyễn Đức Thuận

Tưởng nhớ anh Nguyễn Đức Thuận
Tưởng nhớ anh Nguyễn Đức Thuận ảnh 1

Nguyên các Chủ tịch TCĐ: Nguyễn Văn Linh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Đức Thuận và các đại biểu dự ĐH CĐVN lần thứ IV (1978).

Sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp ngày 9-3-1945, phong trào Thanh niên Tiền Phong sôi nổi, phát triển lực lượng rất nhanh, trở thành lực lượng hùng hậu để Đảng ta chuẩn bị cuộc khởi nghĩa Tháng Tám.

Sau khi các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng từ Côn Đảo trở về đất liền, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp ở vùng ven Sài Gòn – Chợ Lớn, quyết định bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Ngay sau đó, Bác Tôn đã đề nghị anh Lê Duẩn, Ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư để Bác lo các công việc khác của Xứ ủy.

Anh Lê Duẩn khi ở Bắc về liền triệu tập Hội nghị Xứ ủy chính thức để thực hiện các chỉ thị của Trung ương về cuộc kháng chiến chống Pháp. Anh mạnh dạn cử hai cán bộ trẻ làm Phó Bí thư Xứ ủy: Anh Nguyễn Văn Kỉnh – nhà trí thức trẻ của Sài Gòn, anh Nguyễn Đức Thuận, công nhân. Cả hai người đều trên dưới 30 tuổi.

Anh Nguyễn Đức Thuận quê ở xã Bảo Ngữ, huyện Vụ Bản, Nam Định là công nhân thủy tinh Hà Nội. Anh tham gia cách mạng từ rất sớm. Năm 1940, anh bị giặc bắt. Chúng đày anh qua các nhà giam Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo. Anh đã từng làm Bí thư tỉnh Thủ Biên, sau là Bí thư các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đến năm 1947 là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Anh còn được phân công là Trưởng ban Dân vận Mặt trận của Đảng và Phó Chủ tịch Ủy ban Việt Minh Liên Việt Nam bộ.

Năm 1948, tôi quen anh Thuận trên đường từ Việt Bắc vào miền Nam. Lúc đó, anh và đoàn Nam Bộ trên đường ra gặp Bác Hồ. Anh lớn tuổi hơn tôi lại là cấp trên, nên tôi vẫn giữ khoảng cách với anh mỗi khi làm việc. Nhưng anh xóa bỏ khoảng cách đó rất nhanh. Anh nói: “Tớ rất thích lối làm việc của cậu”. Trong thời kỳ anh phụ trách dân vận, phong trào các giới từ công nhân đến học sinh, sinh viên và trí thức rầm rộ ở khắp Nam Bộ, nhất là ở Sài Gòn – Gia Định, nổi tiếng là những cuộc biểu tình đuổi tàu Mỹ.

Năm 1956, khi vào Sài Gòn để tiếp xúc với cán bộ, anh bị giặc bắt. Anh bị giam ở P42 Sở Thú - một nhà giam nổi tiếng là tàn bạo lúc bấy giờ. Địch đã không khuất phục được anh. Anh không có án nên khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ thì anh được trả tự do. Khu ủy Sài Gòn đã đón anh vào khu và tôi cùng với anh lại lên căn cứ Trung ương Cục ở Bắc Tây Ninh, chuẩn bị đưa anh ra Bắc.

Ở Hà Nội, anh xuất bản cuốn hồi ký “Bất khuất” một tác phẩm nói lên phẩm chất của người cộng sản trong ngục tù Mỹ ngụy. Sau đó, anh được phân công nhiều chức vụ cao như Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng An ninh Quốc phòng Nhà nước và Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy viên Công đoàn thế giới.

Tôi gặp anh ở Hà Nội sau ngày 30-4. Anh vẫn sống thanh bạch, giản dị. Một lần anh mời tôi về nhà ăn cơm. Đến nơi tôi thấy người nhà đem ra ba chén cà ri bò, 3 ổ bánh mì cho ba người là anh, chị Phương Nhu và tôi. Tôi hỏi ra mới biết mặc dù là cán bộ cao cấp, nhưng anh vẫn sống khắc khổ như thế.

Anh mất vào năm 1985, lúc đó anh mới 69 tuổi, để lại niềm thương tiếc cho gia đình, cho đồng chí, bè bạn và là một sự mất mát đối với đất nước mà anh đã cống hiến suốt đời vì sự nghiệp độc lập thống nhất của Tổ quốc và vì cuộc sống no ấm của nhân dân.

PHẠM DÂN

Tin cùng chuyên mục