Kỷ niệm 34 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2009)

“Cờ chiến thắng, máu các anh nhuộm đỏ”

Trước giờ nổ súng
“Cờ chiến thắng, máu các anh nhuộm đỏ”
“Cờ chiến thắng, máu các anh nhuộm đỏ” ảnh 1

Trận đánh ở cầu Rạch Chiếc của các đơn vị thuộc Lữ đoàn 316 đặc công đã qua 34 năm nhưng ký ức bi hùng về những đồng đội đã hy sinh vẫn còn mãi trong ông. Ngày ấy, cũng như những đồng đội của mình, phơi phới niềm tin vào thắng lợi cuối cùng, trung úy Nguyễn Đức Thọ (ảnh), trinh sát của đơn vị Z23, Lữ đoàn 316, chuẩn bị hành trang bước vào trận đánh lớn với tâm trạng sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Câu chuyện mà ông kể với chúng tôi là những kỷ niệm sâu đậm về 3 ngày, 2 đêm cuối tháng 4-1975 lịch sử ở cửa ngõ phía Đông Sài Gòn…

Trước giờ nổ súng

Từ khi thành lập vào năm 1972, đơn vị Z23 (Lữ đoàn 316 đặc công Bộ Tham mưu Miền) vẫn chưa tham gia nhiều trận đánh lớn. Do là một lực lượng đặc biệt, chủ yếu là đặc công hải quân nên lệnh từ cấp trên truyền xuống là toàn đơn vị phải “ém” quân ở các bưng dừa nước thuộc Bình Trưng, Thủ Đức, giữ bí mật để chuẩn bị đánh vào Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy. Đến ngày 25-4, đơn vị nhận lệnh hủy bỏ phương án đánh Bộ Tư lệnh Hải quân mà tập trung lực lượng đánh chiếm cầu Rạch Chiếc. Được tham gia trực tiếp trận đánh thẳng vào Sài Gòn, anh em trong đơn vị đều phấn khởi.

Ông Nguyễn Đức Thọ nhớ lại: “Anh em nghe tin xong đều háo hức chờ giờ G. Ai ai cũng tranh thủ nhờ tôi, vốn là tay cắt tóc nghiệp dư, tỉa lại tóc cho gọn gàng, cạo râu nhẵn nhụi như sắp đón ngày lễ trọng đại vậy. Thất, đồng hương Thanh Hóa với tôi, còn nói vui: “Chết ở Sài Gòn, phải thật đẹp chứ!”. Mọi người cùng sắp xếp ba lô, thu gom những vật dụng hàng ngày. Những lá thư được biên vội, gửi gấp cho anh bưu tá để về với những người thân yêu...”.

Ngày 27-4, bữa cơm chiều trở thành bữa liên hoan trước giờ ra trận. Trước đó và trong suốt bữa ăn, bên cạnh sự lạc quan yêu đời ánh lên trong từng khóe mắt, anh em cũng kể cho nhau nghe thật nhiều về những người thương yêu của mình. Anh nào cũng nhắn gửi: “Nếu tao hy sinh, mày còn sống thì tìm đến địa chỉ… này, báo cho nhà tao biết, tao đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Nhớ đấy!”. Anh em ở với nhau 3 năm trời, đều như ruột thịt nên ai ai cũng siết chặt tay nhau cùng lời hứa sẽ chuyển lời. Ngay sau bữa cơm, mọi người chuẩn bị vũ khí rồi lên đường. 21 giờ tối 27-4, cả đơn vị đã áp sát hàng rào ngay cạnh cầu Rạch Chiếc. Tất cả cùng chờ giờ nổ súng.

Hy sinh ở cửa ngõ Sài Gòn

Bài thơ “Đồng đội” được trung úy Nguyễn Đức Thọ làm tặng những người đồng đội của mình, những người bạn mà theo ông hôm nay còn đứng chung hàng ngũ, hôm sau đã mãi mãi vĩnh biệt:

“… Nhiệm vụ thiêng liêng và một tấm lòng son
Chí đã quyết với cái tâm người chiến sĩ
Lính biệt động chúng mình là thế
Phút thiêng liêng khi nhiệm vụ hoàn thành
Trong đội hình lại vắng mái đầu xanh
Cờ chiến thắng, máu các anh nhuộm đỏ…”

3 giờ sáng 28-4, tiếng súng B40 của trinh sát Nguyễn Đức Thọ vừa dứt, một góc chòi gác ở chân cầu Rạch Chiếc đổ sụp. Anh em xông lên, tiếng thủ pháo, đạn vang khắp mặt trận. Bọn địch bất ngờ, không trở tay kịp. Quân ta tràn vào chòi canh, chiếm được bên đây cầu Rạch Chiếc. Lúc này, anh em thuộc 3 đơn vị D81, Z22 và Z23 đã hòa làm một.

Đến 6 giờ sáng, địch bắt đầu phản công dữ dội, những chiếc tàu bay rà rà thả quân xuống bên kia cầu, pháo từ các phía bắn xối xả. Nấp dưới sình lầy, dưới những tán dừa nước, anh em trong đơn vị hầu như chưa có thương vong do pháo gặp sình mất tác dụng. Đến 9 giờ, địch chuyển sang pháo chùm. Những quả pháo cách mặt đất vài mét nổ tung từng mảnh chùm xuống đất. Đã bắt đầu có thương vong…

Anh Thành, quyền Đại đội trưởng Z22, bị đạn bắn gẫy một chân. Anh em trong đơn vị đánh chiếm được 1 bo bo của địch, liền đưa anh lên đẩy ra phía cửa sông, tìm đường thoát cho anh. Nhưng Thành không chịu: “Thà chết cũng ở lại với anh em”. Hai chiến sĩ khác quê ở Hải Hưng là Mừng và Quang liền ghé vai dìu đồng đội đi sâu vào vùng đầm lầy. Thành bị trúng đạn lần thứ 2, gãy nốt chân còn lại. Ngâm lâu dưới sình, đôi chân của anh sưng vù. Không kìm được, Thành bật tiếng rên nhỏ. Ngay lập tức, pháo, đạn của địch đổ dồn về phía cánh đồng sình. Quang đứng bật dậy, bắn 1 quả B41 vào giữa đội hình địch. Cũng hầu như ngay lập tức, sau một quả pháo của địch, đội hình 3 người Thành-Quang-Mừng đã vĩnh viễn nằm lại.

Ở ngay sát chân cầu, Thất cầm súng tiến lên sát đầu cầu để bắn chính xác hơn. Anh em gần đó hét lên: “Đứng xa ra, không dính đạn bây giờ”. Nhưng Thất không nghe thấy, anh chỉ thấy trước mặt là quân thù. Bắn hết đạn, anh dùng mìn tiếp tục tiêu diệt địch. Đến tận lúc bị địch bắt sống, Thất vẫn bình thản vô cùng. Sau này, khi đi gom thi thể đồng đội, anh em trong đơn vị mới hay, vì thấy anh lính trẻ quá gan dạ, địch đã xử tử anh tại chỗ, thi thể bị phân làm đôi vứt ở 2 bên vệ đường…

Ở một tốp khác, bị đánh bật khỏi chòi canh, trung úy Phan Văn Thẩm, Chính trị viên Z23, cùng với trinh sát Minh đối đầu với một lượng lớn quân địch. Bắn đến viên đạn cuối cùng, 2 anh bị bắt. Thấy anh Thẩm lớn tuổi, nghi là sĩ quan cao cấp, địch đem giải về nội thành. Riêng anh Minh, chúng thủ tiêu tại chỗ, rồi mổ bụng đem phơi ngay trên mặt cầu.

Đến đêm 28-4, những anh em còn sống sót của Z23 bằng nhiều con đường, tìm về căn cứ ở Bình Trưng. Chỉ thị từ trên đưa xuống: Bằng mọi giá phải đánh chiếm cầu Rạch Chiếc. Anh em nuốt nước mắt, gác nỗi đau qua một bên, chuẩn bị quân trang, quân dụng để rạng sáng 29-4, trở lại Rạch Chiếc.

Trở lại và chiến thắng

Cờ giải phóng tung bay trên cầu Rạch Chiếc sáng 30-4-1975.

Cờ giải phóng tung bay trên cầu Rạch Chiếc sáng 30-4-1975.

Rạng sáng 30-4, các đơn vị đặc công quay lại. Lúc này, quân địch tập trung khá đông để bảo vệ cầu nhưng chủ yếu là dùng quân vừa thất trận tại Xuân Lộc. Lợi dụng lúc địch còn đang thất thần, đặc công ta ào lên tấn công dữ dội. Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng, ta đã chiếm được cây cầu. Từ đằng xa, từng đoàn xe cơ giới, thiết giáp của Quân đoàn 2 đã thấp thoáng tiến về giải phóng Sài Gòn.

Một chiến sĩ đặc công bước ra, khẩu AK trên tay anh cột một dải băng màu đỏ báo hiệu đã chiếm được cầu. Từ những chiếc xe, nhiều chiến sĩ giải phóng quân bước xuống hỏi thăm các đồng đội đặc công còn ám màu khói đạn. Ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên chòi canh cầu Rạch Chiếc. Cửa ngõ phía Đông Sài Gòn đã mở toang…

Sau khi Sài Gòn được hoàn toàn giải phóng, anh em Z23 trở lại cầu Rạch Chiếc để tìm thi thể của đồng đội. Ông Thọ nhớ lại: “Chúng tôi đi dọc hai bên cây cầu, nơi mà vết tích của trận chiến trước đó vài ngày còn vung vãi khắp nơi. Trước khi lên đường, chúng tôi có 43 người. Khi cuộc chiến kết thúc, chỉ còn lại 29 người sống sót. Trong số 52 liệt sĩ đặc công hy sinh ở cầu Rạch Chiếc, có 14 chiến sĩ của Z23. Nhiều thi thể không còn lành lặn, chúng tôi phải gói các anh lại bằng túi ni lông, chôn các anh ngay tại chân cầu với tấm tôn viết vội những dòng tên và quê quán. Mãi đến sau này, khi đưa các anh về với nghĩa trang, vẫn còn 5 anh không tìm thấy hài cốt…

Ra đi khi tuổi mới vừa 20, 21, những chiến sĩ đặc công ấy còn chưa kịp có người yêu, không kịp nhìn thấy cảnh miền Nam được hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước chỉ sau đó 1, 2 ngày. Những chiến sĩ trẻ tuổi ấy đã làm nên một trận đánh cầu Rạch Chiếc bi hùng trong lịch sử dân tộc.

Thạch Thảo

Trận đánh mở đường, giải phóng Sài Gòn

Sài Gòn là trung tâm đầu não về quân sự và chính trị của địch. Vì thế, việc đánh chiếm Sài Gòn sẽ kết thúc cuộc chiến tranh do Mỹ ngụy gây ra đã hơn 20 năm. Mục tiêu của chúng ta trong trận đánh cuối cùng này đã được vạch ra từ đầu, gồm 5 mục tiêu lớn, trong đó quan trọng nhất là Dinh Tổng thống ngụy (Dinh Độc Lập).

Thời điểm này, số lượng địch ở miền Nam còn khá đông. Tuy chúng đã bị dao động nhưng cho đến ngày chiến dịch của chúng ta nổ ra thì địch ở Sài Gòn nói riêng và phần còn lại của miền Nam nói chung còn rất ngoan cố.

Khi các cánh quân hướng Đông-Đông Nam được vinh dự nhận mục tiêu đánh chiếm Dinh Độc Lập thì hệ thống hàng chục chiếc cầu trên các sông rạch bao quanh Sài Gòn trở thành mục tiêu tác chiến trước mắt. Ba cầu quan trọng nhất ở hướng Đông trên quốc lộ 1 là cầu Đồng Nai (trên sông Đồng Nai), cầu Rạch Chiếc (trên vàm Rạch Chiếc, một nhánh thuộc hạ lưu sông Sài Gòn) và cầu Sài Gòn (trên sông Sài Gòn áp sát nội đô). Trong 3 chiếc cầu quan trọng này, việc đánh cầu Rạch Chiếc có thể đồng nghĩa với việc mở cửa áp sát nội đô Sài Gòn, bắt địch phải đầu hàng.

Trận đánh - chiếm - giữ cầu Rạch Chiếc diễn ra từ đêm 27-4 đến sáng 30-4 đã góp phần to lớn vào chiến thắng của cánh Đông trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ba đơn vị của Lữ đoàn 316 đặc công là D81, Z22 và Z23 đã tham gia trận đánh. Đêm 27 rạng ngày 28-4-1975, ở khu vực cầu Rạch Chiếc đã diễn ra trận chiến đấu quyết liệt giữa bộ đội đặc công của Lữ đoàn 316 với các lực lượng “tử thủ” của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Sau 3 ngày đêm chiến đấu trong điều kiện cực kỳ gian khổ, ác liệt, bộ đội ta đã tiêu diệt 2 tiểu đoàn quân ngụy, thu giữ nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh, giữ vững cầu Rạch Chiếc, bảo đảm thắng lợi cho bộ đội chủ lực thọc sâu vào TP, đánh sập hoàn toàn chế độ ngụy quân, ngụy quyền, hoàn thành thắng lợi công cuộc giải phóng miền Nam.

52 cán bộ chiến sĩ của Lữ đoàn 316 đã hy sinh, chiếm tỷ lệ 8,5% trong tổng số 6.000 liệt sĩ đã hy sinh trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đã phần nào phản ánh tính chất ác liệt và tầm quan trọng của trận đánh đối với chiến dịch. Rạch Chiếc là trận đánh mở đường, tạo bàn đạp cho cánh Đông của chiến dịch hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giải phóng Sài Gòn.

(Trích tập san “Trận đánh cầu Rạch Chiếc trong đại thắng mùa xuân 1975- Ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa về một di tích”, do ĐH KHXH-NV TPHCM phát hành, tác giả: Hà Minh Hồng, Thanh Hải, Quyền Hồng)

Tin cùng chuyên mục