
Thiếu tướng Nguyễn Văn Bứa (Hồng Lâm) mãi hiện hữu trong ký ức cán bộ chiến sĩ miền Đông như hiện thân của một tri thức quân sự rộng và bài bản, lối xử thế đoàn kết, khoan dung, pha chút hào hoa bặt thiệp...
Thiếu tướng Nguyễn Văn Bứa có bí danh Nguyễn Hữu Nghĩa. Tuy nhiên người ta nhớ tên Nguyễn Hồng Lâm nhiều hơn. Hồng Lâm tức rừng đỏ, rừng chiến khu cách mạng, ông dùng để đặt tên cho người con trai và lấy làm bí danh khi trở lại hoạt động ở chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Sinh ngày 20-5-1922 trong một gia đình trung nông ở xã Tân Mỹ Đông, huyện Hóc Môn, Gia Định.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Bứa và phu nhân.
Trong những ngày không khí sửa soạn tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 dâng ngập khắp cả nước, thanh niên Nguyễn Văn Bứa vận động tập hợp được một đội cảm tử của xã Tân Mỹ Đông do ông làm đội trưởng.
Ngày Nam bộ kháng chiến, Nguyễn Văn Bứa chỉ huy 2 tiểu đội vũ trang đem sáp nhập với lực lượng của đồng chí Tô Ký, bộ đội Khu 2 Hóc Môn. Và ông đã lấy mốc ngày 23-9-1945 làm ngày nhập ngũ của mình, ngày mà bắt đầu từ đó, ông trở thành anh bộ đội Cụ Hồ, trở thành vị tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Như những chiến sĩ Vệ quốc đoàn ở Nam bộ lúc ấy, Nguyễn Văn Bứa bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với tất cả sự hào hứng của tuổi đôi mươi. Có kiến thức quân sự cơ bản và phẩm chất của một người chỉ huy quyết đoán, nhân hậu, lần lượt ông được giao nhiều trọng trách.
Sau thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang giai đoạn mới. Tình hình đòi hỏi cần phải thành lập những đơn vị chủ lực để “đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”. Ở Nam bộ, từ các chi đội Vệ quốc đoàn, hàng loạt trung đoàn được thành lập. Nguyễn Văn Bứa được cử giữ trách nhiệm Trung đoàn phó Tham mưu trưởng Trung đoàn 312 (trung đoàn được thành lập trên cơ sở phát triển Chi đội 12 Gia Định) (5-1948), Trưởng ban tác huấn Phòng tham mưu Khu Sài Gòn – Chợ Lớn (4-1949), Trung đoàn trưởng Trung đoàn 300 Nam bộ (5-1950).
Từ giữa năm 1951, Trung ương Cục miền Nam chủ trương sắp xếp lại chiến trường, tổ chức lại lực lượng vũ trang nhằm chống lại có hiệu quả chính sách tập trung bình định và thủ đoạn bao vây chia cắt của địch. Tỉnh Bà Rịa và tỉnh Chợ Lớn sáp nhập lại thành tỉnh Bà – Chợ với lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh là Tiểu đoàn 300.
Nguyễn Văn Bứa chuyển sang đảm trách nhiệm vụ Tỉnh đội phó Bà – Chợ kiêm chỉ huy trưởng Tiểu đoàn 300. Những năm 1951, 1952, chiến trường miền Đông gặp rất nhiều khó khăn. Bộ đội thiếu lương thực, thực phẩm, trang phục, chế phẩm y tế và đặc biệt là vũ khí chiến đấu.
Bộ Tư lệnh Phân Liên khu miền Đông thành lập Tiểu đoàn vận tải chiến lược 320 làm nhiệm vụ tiếp nhận vận chuyển vũ khí, tiền bạc, chất nổ của Trung ương chuyển vào từ Cù My, La Di, Hàm Tân (Bình Thuận), Xuyên Mộc (Bà – Chợ) về Chiến khu Đ, đưa đón bảo vệ các đoàn cán bộ từ Trung ương vào Nam bộ và ngược lại. Đây là công việc hết sức khó khăn nguy hiểm. Tháng 5-1953, Nguyễn Văn Bứa về chỉ huy Tiểu đoàn thay đồng chí Nguyễn Văn Lung lên giữ chức vụ Tham mưu trưởng Phân Liên khu miền Đông. Rồi cũng tại khu vực đầu cầu cung đường vận tải này, Nguyễn Văn Bứa cùng gia đình lên tàu tập kết ra miền Bắc.
Trước khi là học viên Học viện Quân sự Nam Kinh Trung Quốc (năm 1959), trong những ngày “ngày Bắc đêm Nam”, ông là cán bộ tham mưu phụ trách quân lực Phòng tham mưu Sư đoàn 330, Trung đoàn phó Tham mưu trưởng Trung đoàn độc lập 656, Trưởng ban tác huấn Sư đoàn 338, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 664 rồi Tham mưu phó Sư đoàn 330. Giữa năm 1961, đang chuẩn bị thi tốt nghiệp ở Học viện Quân sự Nam Kinh, ông được Quân ủy Trung ương gọi về cử vào Nam chiến đấu.
Tháng 9 năm ấy, ông về lại chiến trường quê hương với cương vị Chỉ huy phó Tham mưu trưởng Quân khu miền Đông. Bấy giờ ở Nam bộ, cơ quan quân sự mới chỉ là ban quân sự thuộc các khu ủy do một số đồng chí khu ủy viên phụ trách, chưa thành cơ quan quân khu hoàn chỉnh. Các tỉnh đội cũng đang trong quá trình thành lập. Nguyễn Văn Bứa bắt tay xây dựng cơ quan ban chỉ huy quân khu, đủ các tổ chức tham mưu, chính trị, hậu cần, rồi cơ quan các tỉnh đội, huyện đội, các đại đội, tiểu đoàn tập trung của quân khu, của tỉnh.
Từ cuối năm 1964, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền tổ chức chiến dịch tiến công với qui mô nhiều trung đoàn chủ lực tham gia trên một địa bàn rộng – chiến dịch Bình Giã, mở đầu cho hàng loạt chiến dịch lớn diễn ra liên tiếp sau đó ở miền Đông Nam bộ. Nguyễn Văn Bứa được phân công làm Chỉ huy phó chiến dịch Bình Giã, và sau đó là Chỉ huy trưởng mặt trận phía Đông (mặt trận phối hợp) trong chiến dịch Đồng Xoài, Chỉ huy phó chiến dịch đông-xuân 1965 – 1966 và tham gia chỉ huy các cuộc pháo kích sân bay quân sự Biên Hòa, tổng kho Long Bình trong các năm 1964, 1966, 1967.
Mùa thu năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích tổng khởi nghĩa, chiến trường miền Đông được sắp xếp lại. Quân khu miền Đông (T7) và Quân khu Sài Gòn – Gia Định (T4) giải thể để thành lập các phân khu, hình thành năm mũi nhọn tấn công vào sào huyệt Sài Gòn. Chỉ huy trưởng Quân khu miền Đông (từ 8-1965) Nguyễn Văn Bứa về làm chỉ huy trưởng Phân khu 1, rồi Chỉ huy trưởng Phân khu 5 chỉ huy các lực lượng tiến công đánh vào hướng Bộ Tổng tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, kho bom Gò Vấp và các địa bàn vùng ven trong đợt tiến công tiếp theo xuân Mậu Thân.
Cuối năm 1969, Đại tá Nguyễn Văn Bứa trở lại làm Chỉ huy trưởng Quân khu 7, bao gồm Phân khu 4, tỉnh Bà Rịa – Long Khánh, luôn cả rừng Sác Đoàn 10. Trong những ngày cam go sau biến cố Mậu Thân, địch phản kích càn quét quyết liệt, phải ăn khoai rừng, rau rừng trừ bữa, ông đã chỉ huy bộ đội bám trụ, tổ chức đánh địch trên dọc đường 1, đường 15, đường 2 Bà Rịa, đụng đầu với đủ những đơn vị từng là niềm tự hào của quân đội Mỹ, từ Sư đoàn 25 tia chớp nhiệt đới, Sư đoàn 1 anh cả đỏ, Sư đoàn kỵ binh bay, Lữ đoàn dù 199, Trung đoàn thiết giáp 11...
Tháng 8 năm 1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Miền và một năm sau kiêm giữ trách nhiệm Chỉ huy trưởng Quân khu miền Đông (T1) khi tổ chức chiến trường toàn Miền được sắp xếp lại cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Thiếu tướng Nguyễn Văn Bứa chuyển sang làm nhiệm vụ mới: Phó ban thanh tra Bộ tư lệnh Miền, rồi Phó tư lệnh kiêm Trưởng ban Thanh tra Quân khu 7, Phó Tư lệnh kiêm Cục trưởng Cục Xây dựng kinh tế Quân khu 7. Và từ cuối năm 1984, phụ trách công tác tổng kết chiến tranh, nghiên cứu biên soạn lịch sử quân sự của quân khu.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Bứa mãi hiện hữu trong ký ức cán bộ chiến sĩ miền Đông như hiện thân của một tri thức quân sự rộng và bài bản, lối xử thế đoàn kết, khoan dung, pha chút hào hoa bặt thiệp. Bước chân của ông in dấu trên mọi nẻo chiến trường, từ Gia Định, Tây Ninh đến Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Long Khánh, hầu hết là địa bàn vùng sâu, sát nách thủ phủ Sài Gòn.
Từ trận phục kích, công đồn nhỏ lẻ đến những trận đánh và chiến dịch lớn, riêng trên đất miền Đông, ông có mặt trong hầu hết các biến cố lịch sử mà ý nghĩa của nó từng góp phần làm chuyển đổi cục diện chiến tranh. Ông sinh ra, lớn lên và thành danh ở miền Đông Nam bộ, ăn cơm uống nước và tắm gội trên các con sông chảy từ miền Đông Nam bộ xuôi ra biển cả. Ông là vị tướng của miền Đông!
HỒ SƠN ĐÀI