Với mục tiêu đem nước sạch đến cộng đồng và bảo tồn nguồn nước nhằm góp phần cải thiện chất lượng sống của người dân cũng như tham gia vào chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, từ năm 2004 Công ty Coca-Cola đã phối hợp với các cơ quan tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam để thực hiện nhiều chương trình nước sạch và bảo tồn nguồn tài nguyên nước ngọt.
Với dự án “Nước sạch cho cộng đồng”, trong năm 2013, Coca-Cola đã đóng góp hơn 5,7 tỷ đồng để hợp tác cùng Tổ chức Định cư Liên hợp quốc (UN-Habitat) và Trung tâm Nghiên cứu sức khỏe gia đình và cộng đồng (CEFACOM) thực hiện các dự án xây dựng mạng đường ống phân phối và lắp đặt đấu nối cấp nước cho các hộ nghèo ở các khu vực thiếu nước của huyện Cam Lộ (tỉnh Quảng Trị), quận Hòa Vang (Đà Nẵng) và quận Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh) cũng như khoan giếng, lắp đặt hệ thống lọc nước cho các hộ nghèo tại Huyện Thường Tín (Hà Nội). Dự án hỗ trợ gần 10.000 người dân tiếp cận nước sạch.
Ngoài ra, Coca-Cola còn hợp tác với Quỹ Bảo vệ động vật hoang dã thế giới (WWF) tiếp tục triển khai dự án “Bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng” ở Vườn Quốc gia Tràm Chim với ngân sách hơn 3,7 tỷ đồng nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên nước ngọt, góp phần hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Khoa Mỹ, Giám đốc Truyền thông và Đối ngoại Coca-Cola Đông Nam Á cho biết: “Là một doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nước giải khát, nước là một nguồn nguyên liệu rất quan trọng đối với chúng tôi. Việc sử dụng nước hiệu quả luôn là trách trách nhiệm hàng đầu của doanh nghiệp. Trách nhiệm đó không chỉ được thể hiện qua qui trình sản xuất mà còn bằng các hoạt động mang tính cộng đồng và môi trường. Hỗ trợ người dân tiếp cận nước sạch và thực hiện các dự án bảo tồn nguồn nước luôn là các hoạt động trọng tâm mà Công ty Coca-Cola Việt Nam tập trung thực hiện, nhằm góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng và ứng phó biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Sắp tới đây, chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam mở rộng hơn nữa phạm vi và quy mô của các dự án tương tự tại Việt Nam”.
LIÊN UYÊN