Giữ hồn tranh Đông Hồ trong đời sống đương đại

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vừa được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Sự kiện không chỉ khẳng định giá trị đặc biệt của dòng tranh gần 500 năm tuổi, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về bảo tồn, phục hồi và phát triển di sản trong đời sống đương đại.

Cả làng chỉ còn 3 hộ làm nghề

Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ ra đời vào khoảng thế kỷ XVI tại làng Đông Hồ xưa (nay là khu phố Đông Khê, phường Song Hồ), tỉnh Bắc Ninh. Từ một làng nghề sầm uất với 17 dòng họ, khoảng 180 hộ gia đình làm tranh trước thập niên 1950, Đông Hồ hôm nay chỉ còn lại 3 hộ với khoảng 30 người thuộc 4 thế hệ có thể thực hành nghề, trong đó chỉ 8 nghệ nhân giữ vai trò quyết định ở những công đoạn quan trọng nhất như sáng tác mẫu, khắc ván in…

R6a.jpg
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế giới thiệu bản khắc in tranh dân gian Đông Hồ

Sự mai một của nghề tranh Đông Hồ diễn ra trong nhiều thập niên, gắn liền với biến đổi sâu sắc của đời sống xã hội. Tập quán treo tranh dịp Tết Nguyên đán, trang trí không gian thờ cúng dần biến mất… Chợ Đình Đông Hồ, không gian giao thương, sinh hoạt văn hóa đặc thù của làng tranh nay cũng không còn tồn tại. Hiện phần lớn người dân ở Đông Khê đã chuyển sang làm hàng mã, loại hình mang lại thu nhập ổn định hơn. Người trẻ ít mặn mà với nghề tranh do quá trình học nghề dài, thu nhập không tương xứng công sức. Việc trao truyền vì thế bị đứt gãy, số người thành thục nghề ngày càng hiếm. Hồ sơ UNESCO đã chỉ rõ, đây là một trong những nguy cơ lớn nhất, khiến nghề làm tranh Đông Hồ cần được bảo vệ khẩn cấp.

May mắn thay, nghề làm tranh vẫn được một số hộ dân gìn giữ, thực hành với đủ loại từ tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, đến tranh truyện, tranh sinh hoạt, tranh phong cảnh... Các tri thức và kỹ năng về tạo mẫu và chọn nguyên vật liệu, khắc ván in nét, ván in màu, làm giấy dó phủ điệp, in tranh… vẫn được trao truyền trực tiếp thông qua thực hành giữa các thế hệ trong gia đình, dòng họ, giữa người có kinh nghiệm với người mới học nghề.

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ nhận định, giá trị của tranh Đông Hồ không nằm ở một yếu tố đơn lẻ, mà ở sự kết hợp hài hòa giữa nội dung, hình thức tạo hình, kỹ thuật in khắc và những câu chuyện xã hội ẩn chứa trong từng bức tranh. “Chính hệ thống tri thức dân gian được gửi gắm qua bố cục, hình tượng và ngôn ngữ tạo hình đã giúp tranh Đông Hồ vượt lên giá trị trang trí, trở thành một di sản văn hóa giàu sức sống của người Việt”, ông nhấn mạnh .

Sức sống của dòng tranh cổ

Sau thời khắc được UNESCO ghi danh (ngày 9-12-2025), nghề làm tranh dân gian Đông Hồ bước vào một giai đoạn mới, với nhiều kỳ vọng phục hồi và phát triển bền vững. Theo Thứ trưởng Bộ VH-TT-DL Hoàng Đạo Cương, đây là sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những giá trị độc đáo, lịch sử và ý nghĩa nhân văn sâu sắc của dòng tranh đã gắn bó với đời sống văn hóa người Việt hàng trăm năm. Việc ghi danh cũng tạo động lực để huy động nguồn lực bảo tồn di sản đang đối diện nguy cơ cao bị mai một.

Ở góc độ địa phương, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bắc Ninh Mai Sơn cho biết, tỉnh đã triển khai Chương trình hành động bảo vệ khẩn cấp nghề làm tranh Đông Hồ. Trọng tâm là củng cố lực lượng nghệ nhân, mở các lớp truyền dạy cho thế hệ kế cận, phục hồi không gian thực hành nghề, kiểm kê và số hóa hệ thống ván khắc, vốn được coi là “đồ gia bảo” truyền từ đời này sang đời khác. Việc quảng bá, mở rộng thị trường tiêu thụ, đa dạng hóa sản phẩm cũng được xác định là hướng đi quan trọng để nghề tranh có thể sống được bằng chính giá trị của mình.

Trong đời sống đương đại, tranh Đông Hồ cũng đang dần mở rộng không gian hiện diện. Từ những bức tranh treo tết, tranh được ứng dụng trong trang trí nhà ở, khách sạn, không gian công cộng, trở thành quà lưu niệm văn hóa, sản phẩm mỹ thuật ứng dụng. Một số nghệ nhân và người trẻ đã đưa tranh Đông Hồ lên các nền tảng số, sàn thương mại điện tử, giúp di sản tiếp cận công chúng rộng rãi hơn.

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế chia sẻ: “Chính niềm đam mê, tình yêu nghề và sự bền bỉ của cộng đồng nghệ nhân là yếu tố then chốt giúp tranh Đông Hồ vượt qua nguy cơ mai một”, ông nói. Một tín hiệu tích cực khác đến từ sự nhập cuộc của giới trẻ. Các dự án sáng tạo, chương trình nghệ thuật như Đông Hồ thế sự đã chuyển hóa chất liệu tranh dân gian vào sân khấu, thiết kế, truyền thông, tạo nên ngôn ngữ biểu đạt mới mà vẫn tôn trọng tinh thần gốc của di sản. Những cách tiếp cận này góp phần đưa tranh Đông Hồ ra khỏi không gian bảo tàng, bước vào đời sống hiện đại một cách tự nhiên.

Tin cùng chuyên mục