LTS: Trong thời gian gần đây, sách Bên thắng cuộc của tác giả Huy Đức (đang tham dự một khóa tu nghiệp tại Đại học Harvard, Mỹ) đã xuất bản phát hành trên mạng, gây sự chú ý của công luận. Tác giả nhìn lại một giai đoạn lịch sử đã qua của nước ta từ sau ngày giải phóng, với góc nhìn phiến diện, thậm chí xuyên tạc, phủ nhận thành tựu cách mạng. Với ý thức tôn trọng lịch sử và có trách nhiệm với vận mệnh đất nước, nhiều bạn đọc Báo SGGP đã nêu ý kiến phản biện, bày tỏ chính kiến. Báo SGGP xin giới thiệu một số bài viết của bạn đọc nhận xét về cuốn sách này.
Chỉ phần 1 Bên thắng cuộc (Giải phóng) của tác giả Huy Đức thôi, tư liệu đã ngồn ngộn, hiếm có tài liệu nào phong phú như thế. Tác giả đã sưu tầm, tra cứu, tìm hiểu và cung cấp những thông tin được cho là hàng hiếm, hàng “độc”. Nhưng đọc kỹ những gì tác giả thể hiện trong tác phẩm, người đọc có quyền nghi ngờ.
1. Xuyên suốt quyển sách, tác giả cố làm cho rõ ràng những chuyện của bên thắng cuộc. Tác giả không gọi tên “bên thua cuộc” nhưng với những gì thể hiện trong cuốn sách thì không thể không có câu hỏi được đặt ra: Bên còn lại là gì nếu không phải là “bên thua cuộc”? Và “bên thua cuộc” là ai? Với những gì trong tập sách, dường như tác giả muốn nói đến chính những người đồng bào của mình - như một sự mặc định?
Ở điểm này, tôi có hai điều băn khoăn. Thứ nhất, trong sách tuy Huy Đức không nhắc gì đến “bên thua cuộc” thực sự nhưng dường như tác giả đã lẫn lộn hoặc cố tình lập lờ về bản chất của cuộc chiến tranh tại Việt Nam những năm 1954 - 1975. Đó là một cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, từ việc dựng lên chính quyền tay sai rồi đến trực tiếp đưa quân tham chiến. Chiến thắng năm 1975 thực sự là chiến thắng của dân tộc Việt Nam đối với chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Đế quốc Mỹ sau nhiều năm can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp, hao tốn nhiều tiền của và sinh mạng, đồng thời cũng gây bao nhiêu đau thương, mất mát cho dân tộc ta, chính là kẻ thua cuộc. Thứ hai, tác giả đã “xô” tất cả những người vốn là nạn nhân - gián tiếp hoặc trực tiếp - của chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam vào “bên thua cuộc”. Dường như Huy Đức đã để cho người đọc thấy rằng những người đó đã “ngoi ngóp” với những sự kiện chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước bấy giờ. Kỳ thực, tất cả không hoàn toàn như Huy Đức thể hiện.
Chúng ta đều biết có những cá nhân trưởng thành, thành danh từ chế độ cũ và tài năng đã thăng hoa sau ngày thống nhất đất nước. Diễn viên điện ảnh Nguyễn Chánh Tín là một thí dụ. Anh thực sự được mọi người nhớ đến với vai chính Nguyễn Thành Luân - hình tượng nghệ thuật của nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo - trong bộ phim “kinh điển” Ván bài lật ngửa. Hay nhà kinh tế học, một nhân sĩ rất nổi tiếng là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh (1921 - 2003), người từng 2 lần làm quyền Thủ tướng của chế độ Sài Gòn, sau này trở thành đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là cố vấn kinh tế cho các nhà lãnh đạo hàng đầu đất nước như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt…
Chúng ta cũng đều nhớ rằng sau ngày 30-4-1975, khi Tổng Bí thư Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, ông nắm tay đưa lên cao, nói với giọng đầy cảm xúc: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai”. Vâng, đối với người Việt Nam, đây là một thắng lợi chung của cả dân tộc chứ không phải thắng lợi của ai đó và số khác bị thua cuộc. Nhìn lại suốt cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hầu như gia đình nào cũng có mất mát. Rất nhiều gia đình có người theo bên này hoặc bên kia, ngay cả sự đối đầu nhau về ý thức hệ, về chiến tuyến cũng đã là mất mát. Rồi tính mạng và tài sản, tự do và hạnh phúc…, buộc người ta phải lựa chọn, đánh đổi ở hầu hết các gia đình tại miền Nam.
Không chỉ vậy, rất nhiều đàn ông hiện tuổi từ 60 trở lên, trước năm 1975 đã phải hủy hoại thân thể để tránh đi quân dịch, người chặt ngón tay, kẻ làm hỏng mắt… Cũng có không ít người khác đã đi quân dịch rồi phải tự hủy hoại thân thể của mình để được giải ngũ hoặc chỉ để được… ở tù nhằm tránh phải hy sinh vô nghĩa cho chiến tranh dù họ là những người được trả lương cao, được “trang bị tận răng”. Họ đều là nạn nhân của chiến tranh. Và, khi chiến tranh kết thúc, mọi người đều vui mừng, bởi người ta không còn lo bị bom rơi đạn lạc, không trở thành nạn nhân của những vụ thảm sát kiểu Sơn Mỹ, Thạnh Phong, không phải tự hủy mình để khỏi đi quân dịch…
Lẽ nào ngày kết thúc chiến tranh, họ lại là người thua cuộc?
2. Xuyên suốt trong quyển sách, có vẻ như Huy Đức chỉ thuần túy nêu sự kiện, không bình luận; nếu có bình luận thì chỉ dẫn lời của ai đó, với nguồn dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, mà như muốn cho người đọc thấy sự khách quan, không định kiến, không phiến diện của tác giả. Thế nhưng, dù cố “giấu mình” nhưng qua chính những sự kiện trong cuốn sách, bằng góc độ tiếp cận thông tin, lựa chọn, xử lý thông tin và trình bày ra cho người đọc các chi tiết của sự kiện, của thông tin đó, tự bản thân nó đã thể hiện quan điểm, ý đồ của người viết.
Các sự kiện trong Bên thắng cuộc thường xuyên và liên tục được thể hiện theo cách thức đó. Qua những sự kiện, những tư liệu phục vụ cho ý đồ của mình, tác giả đã cho người đọc thấy một màu rất tối cho cả quãng đường mấy mươi năm sau ngày thống nhất đất nước. Chẳng hạn, tác giả nói khá nhiều về vấn đề “học tập cải tạo” của những người làm việc cho chế độ cũ, việc “cải tạo tư sản”, “cải tạo công thương nghiệp”… Nhưng nếu chỉ nhìn một mặt của vấn đề thì tất yếu là chưa đầy đủ, chủ quan, phiến diện. Và, với một số sai lầm, hạn chế, không hoàn toàn do chủ trương chung mà do nhận thức, cách hành xử (sự hăng hái quá mức trong khi lại khá ấu trĩ…) của một số cán bộ, đảng viên thừa hành lúc bấy giờ.
Do đó, vì không có quan điểm lịch sử cụ thể, không có cái nhìn bao quát, toàn diện, cộng với ý đồ không thực sự trong sáng, thể hiện bằng một sự lập lờ, tác giả đã cố ý gây ngộ nhận cho người đọc. Sự ngộ nhận đó thật nguy hiểm!
Lê Quang Liễn, một thiếu tá của quân đội chế độ Sài Gòn, trong bức thư phản đối Huy Đức (được đăng trên nhiều trang mạng) đã viết: “Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”. Nhưng trên thực tế, theo logic của sự “cắt cúp” sự kiện theo ý đồ riêng của tác giả, thì ngay cả ý kiến của những người “có mặt” cũng khiến người đọc có quyền nghi ngờ các trích dẫn.
Vì vậy, dù trưng ra nguồn từ những tài liệu được cho là đáng tin cậy, ý kiến của nhiều nhân vật có uy tín, khi đọc Bên thắng cuộc, người ta không rõ được đâu là “sự thực tuyệt đối” (tức là có đầy đủ các chi tiết của sự kiện) và đâu là “sự thực tương đối” (chỉ có một vài chi tiết của sự kiện), cứ hư hư thực thực. Mà chính cái hư hư thực thực đó làm nên sự lập lờ khiến tác phẩm thực sự nguy hiểm. “Sự thực tương đối” với một dụng ý thiếu trong sáng có thể gây nhiều điều nguy hại, bởi nó đem đến trong nhận thức người đọc sự sai lệch cả về hình thức lẫn bản chất.
Đọc cuốn sách, người ta bị chìm trong sự nghi ngờ năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành của Nhà nước. Thế nhưng, có một sự thực hiển nhiên không ai có thể phủ nhận: trong hoàn cảnh bị bao vây, cấm vận, bị các thế lực thù địch công kích trên nhiều mặt trận, cả quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, cả ở biên giới Tây Nam lẫn biên giới phía Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta giữ vững ổn định chính trị, đẩy lùi các cuộc tấn công quân sự, nâng dần vị thế chính trị của đất nước.
Cho nên, cần thấy cả điểm và diện, thấy cả cây và rừng thì mới thuyết phục được người đọc. Cũng như người đọc phải đọc được cả các chi tiết của sự kiện thì mới có thể khẳng định đâu là sự thật.
------------------
- Bài tiếp theo: Hãy tôn trọng lịch sử!
Minh Tâm (Quận 3, TPHCM)