Một người lính đẹp trai da trắng môi đỏ, hào hoa và tài hoa. Một giọng ngâm thơ thánh thót “oanh vàng Kinh Bắc”. Một nhà thơ đáng danh Thi Sĩ được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen thưởng tại trận nhờ thơ. Một thủ lĩnh văn công quân đội được Tướng Nguyễn Chí Thanh yêu mến… Đó là Hoàng Cầm của những ngày kháng chiến chống Pháp. Và những mối tình lãng mạn đầy bất trắc đã khiến ông trở thành “ông Hoàng thơ tình” thời hiện đại với Mưa Thuận Thành, Về Kinh Bắc, 99 bài tình.
Hoàng Cầm tự nhận mình thuộc dòng “Mẫu hệ” (Mải theo dòng mẫu hệ/ Thắt yếm đào tuổi son). Có lẽ con người và văn chương của ông giàu nữ tính? Năm 1976, tôi được quân đội điều về Hà Nội dự trại sáng tác để chuẩn bị vào học trường Viết văn Nguyễn Du, tình cờ mượn được tập thơ Về Kinh Bắc bản đánh máy của Hoàng Cầm. Tôi đọc một lèo hết cả tập, rồi đọc lại, rồi chọn từng đoạn mình thích chép vào sổ tay. Tôi đóng một quyển sổ nhỏ bằng bàn tay, chép lại những đoạn ấy gửi cho người chị nuôi ở phố huyện quê tôi, và chị tôi đã thuộc. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ nhiều câu thơ thật ấn tượng của ông: “Em mười hai tuổi tìm theo Chị/ Qua cầu Bà Sấm bến Cô Mưa”, “Quan Đốc đồng áo đen, nẹp đỏ/ Thả tịnh vàng cưới Chị /võng mây trôi/ Em đứng nhìn theo, em gọi đôi!”; “Ngày cưới Chị em tìm thấy lá/ Chị cười se chỉ ấm trôn kim”…
Thơ của ông đã lay động hồn tôi kỳ lạ. Nó không giống thơ thế hệ chúng tôi đang làm. Nó có một không gian xa xăm mơ hồ, một thời gian phức hợp không rõ thời nào, một ngôn ngữ nhòe mờ sáng láng. Hình như nó hội đủ cả ngôn thi, tâm thi, thần thi, cả ý thức, tâm thức và vô thức với một “thần lực Hoàng Cầm”… Nó mới hơn Thơ Mới, và nó khác thơ chúng tôi đang làm. Chính con người đó từ lâu đã mang tới một “sông Đuống nghiêng nghiêng” trong tâm thức bao người. Tôi nể phục ông thật sự, và mong có dịp được gặp ông.
Mãi đến năm 1981 tôi mới gặp Hoàng Cầm. Buổi tối tình cờ, Phan Lạc Hoa rủ tôi và Nguyễn Hoa đến quán rượu của ông trong hẻm 43 Lý Quốc Sư. Chưa gọi rượu, tôi nhờ chị Hoàng Yến cho gặp ông. Ông từ trên gác xép bước xuống thang, tay cầm chai rượu nút lá chuối có dán mảnh giấy ghi mấy chữ “Rượu quê của Hoàng”. Ông gầy gò, tóc vuốt mượt ra phía sau nhưng gương mặt thì rạng rỡ và nhân hậu. Một gương mặt đẹp như mặt mẹ: da trắng, mắt đen, môi đỏ. Tôi vụt nghĩ: Chắc ngày xưa anh đẹp trai lắm, đẹp như “hoa khôi”. Anh đặt chai rượu lên bàn và nói: “Nghe Trọng Tạo có “Làng Quan Họ”, mình mang chai rượu Vân của riêng mình đây”. Thì ra đây là rượu đặc biệt của riêng ông chứ không phải loại rượu Vân quán nhà vẫn bán. Tôi lại thầm phục ông, ngồi một chỗ mà đọc và biết rất nhiều điều chúng tôi đang làm… Sự ứng xử thân tình với đàn em như vậy khiến chúng tôi vô cùng cảm động. Và cái cảm giác ông giống một người mẹ càng khắc dần vào lòng tôi.
Đến thời đổi mới, vì yêu quý thơ và yêu quý ông, tôi bàn với Nguyễn Thụy Kha và Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất bản tập Về Kinh Bắc sau hơn 30 năm im tiếng. Ông không còn bản thảo, nhưng đã ghi lại qua trí nhớ được 32 khúc. Kha viết lời tựa. Chúng tôi quyết định lấy thêm bài Bên kia sông Đuống làm bài mở đầu. Nhưng chưa kịp in thì Hoàng Cầm đánh một bức điện vào Huế xin ngừng lại (vì có người can). Chúng tôi phải chiều theo ý tác giả. Mãi đến 1994, Về Kinh Bắc mới ra mắt bạn đọc bởi nhà xuất bản Văn Học.
Một người trai “nữ tính” thế mà năm 16 tuổi đã viết kịch thơ Hận Nam Quan, năm 20 tuổi viết kịch thơ lớn Kiều Loan làm lay tỉnh lòng yêu nước của dân Việt cho đến nay vẫn nguyên giá trị: “Về ngay đi ghi nhớ Hận Nam Quan/ Bên Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt/ Cha nguyện cầu con lấy lại giang san”; “Vì chính sự bạo tàn/ Ôi! Nước mắt/ Bao nhiêu lần rỏ xuống những hồn oan?/ Chính sự gì đi cầu viện ngoại bang/ Về tàn sát những người dân vô tội”…
Tôi nhớ năm kia kịch Kiều Loan được đạo diễn trẻ Anh Tú dựng cho Nhà hát Tuổi Trẻ làm tác phẩm tốt nghiệp, và Hoàng Cầm với chiếc xe lăn đến xem, đã khóc khi vở diễn kết thúc. Cuối năm 2009 vở kịch thơ Kiều Loan lại đoạt giải Liên hoan sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc tại TPHCM. Tôi không ngờ mình lại ngồi trong ban giám khảo để chấm vở kịch đó, và đã ứa nước mắt khâm phục. Điều đó chứng tỏ lòng yêu nước của Hoàng Cầm còn sống mãi.
Hình như Hoàng Cầm cũng quý mến tôi. Ông viết một bài cảm nhận dài khen không tiếc lời tập thơ Đồng dao cho người lớn của tôi khi nó rơi khỏi giải thưởng Hội Nhà Văn. Khi bài cảm nhận của ông in lên báo Văn Nghệ, tôi đang uống rượu với các nhà văn ở Thanh Hóa, nhà thơ Văn Đắc đã đọc to cho mọi người nghe, như để tỏ lòng cảm phục ông. Những ngày ốm nặng, ông lại giao cho tôi 53 băng cassette thu lời ông nói về đời, về thơ ông. Tiếc là tôi mới nghe được 10 băng thì Công ty Văn hóa Phương Nam đã thương lượng với ông và gia đình mua bản quyền để in thành sách... Đó là những câu chuyện rút ruột của ông. Nhưng tôi chắc là nó sẽ mãi được gìn giữ và công bố sau khi ông qua đời.
Tuy là đàn em, nhưng tôi cũng qua lại với nhiều bạn văn của Hoàng Cầm như Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt… và quả là mỗi người mỗi vẻ, độc đáo vô cùng. Không ai giống ai. Nhưng tôi thấy Hoàng Cầm là yếu đuối hơn cả. Ông đánh giá bạn ông toàn là tài giỏi với một thái độ chân thành không vụ lợi. Ông khiêm tốn cho rằng Bên kia sông Đuống cũng chỉ sống thêm được dăm chục năm nữa (?). Khi tôi nói ông đáng phải được giải thưởng cao hơn, ông bảo được giải ấy là may rồi… Và ông nói tiếp: “Danh và lợi, sự bon chen, sự cầu cạnh, sự tâng bốc nịnh hót, gièm pha, thù hận... là những cái rất xa lạ với tôi, có lẽ xa lạ cả với Thơ chân chính nữa”. Nhưng ông lại đam mê tình yêu đôi khi đến ảo tưởng. Nhiều cuộc ngỏ lời không thành là vì vậy.
Tất cả sự “yếu mềm nữ tính” ấy lại giúp cho thơ Hoàng Cầm nhiều tinh tế và lấp lánh chất tình. Đó cũng chính là chất đa cảm và quyến rũ trong thơ ông: Kìa dây muống dại kín Em rồi/ Lắc đầu hoa tím rụng/ ngó rừng xanh Em hỏi ngọn nguồn/ Biết rồi/ Thôi/ nghe hoa tím hát. Ngay cả những lúc u uất bức bối nhất thì thơ ông cũng vẫn là tiếng kêu của lụa tơ: Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc/ Nghiến oán thù tím ngắt nắng Phong Châu.
Giờ thì “Con người Hoàng Cầm” – con người đẹp trai da trắng môi đỏ, hào hoa và tài hoa ấy đã không còn lại trên cõi đời này nữa, ngợi ca hay chê trách ông cũng là chuyện đã rồi. Nhưng ông đã sống, đã yêu, đã đắng, đã ngọt và đã thơ. Hàng ngàn trang viết của ông còn đó, nói hộ chúng ta rất nhiều điều về một con người nghệ sĩ đến tận cùng chân tóc. Dân tộc và Ái tình chính là hồn ông gửi lại. Đó là những tác phẩm tràn đầy tinh thần Việt mà trong đó sử Việt, văn hóa Việt hay văn hóa Kinh Bắc đều ánh xạ qua trái tim mạnh mẽ và yếu mềm của ông. Vì thế tôi tin ông không mất. Ông còn rất gần ta và đang “Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc”.
Vâng, ông còn tồn tại mãi đến lúc người ta còn đọc ông.
Nguyễn Trọng Tạo