Thời gian qua, phương pháp phẫu thuật nội soi không chỉ giúp các bác sĩ chẩn đoán, tiên lượng các căn bệnh như: đau bụng cấp, viêm ruột thừa, tìm sỏi, đánh giá giai đoạn ung thư của gan, sinh thiết khối u, hạch ổ bụng... một cách thuận lợi, nhanh chóng và chính xác mà còn trở thành giải pháp điều trị thay thế nhiều trường hợp phẫu thuật ngoại khoa kinh điển khác. Với sự tiến bộ vượt bậc, hiện Việt Nam trở thành một trong những cái nôi đào tạo bác sĩ phẫu thuật nội soi cho nhiều nước trên thế giới.
Tiêu chí vàng trong chẩn đoán và điều trị
Xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ 20, nhưng vì điều kiện khoa học kỹ thuật lúc đó chưa thể đáp ứng nên phải đến hơn 80 năm sau phẫu thuật nội soi mới thực sự phát triển sau khi nhà khoa học người Pháp là Philippe Mouret áp dụng phương pháp phẫu thuật nội soi để cắt túi mật (năm 1987). Chỉ 5 năm sau (năm 1992), phẫu thuật nội soi đã được ứng dụng tại Việt Nam và đến nay, phẫu thuật nội soi được xem là một trong những tiêu chí “vàng” trong ngoại khoa.
Từ các phẫu thuật về tai, mũi, họng (như phẫu thuật nội soi mũi - xoang, viêm xoang mạn và polyp mũi, phẫu thuật lấy u tuyến giáp bằng NS) đến những phẫu thuật nội soi niệu (như: cột varicocele, cắt túi thừa bàng quang, chuyển lưu nước tiểu bằng hồi tràng, cắt thận sau phúc mạc (Gaur), bóc tách niệu quản, nối niệu quản, nạo hạch sau phúc mạc, cắt thận - niệu quản, cắt tuyến tiền liệt, cắt nang thận…) và nhiều phẫu thuật phức tạp khác như: cắt túi mật, điều trị sỏi đường mật chính, cắt gan NS, mở thông dạ dày - mở thông hổng tràng nuôi ăn, cắt dạ dày, khâu thủng dạ dày, cắt đoạn đại trực tràng, cắt lách nội soi cho các bệnh về máu, điều trị thoát vị bẹn, cắt đại tràng, điều trị sa trực tràng, điều trị thoát vị hoành và thoát vị khe thực quản; cắt ruột thừa, gỡ dính điều trị tắc và bán tắc ruột, nối nang tụy, cắt hạch giao cảm ngực, cắt u tinh hoàn ẩn, thắt tĩnh mạch tinh; cắt túi động mạch chủ bụng, bắc cầu động mạch vành, thay van hai lá… phẫu thuật nội soi cũng được áp dụng để điều trị các bệnh lý về khớp như điều trị các sụn chêm, khâu sụn chém, ghép sụn và thay thế nhiều phẫu thuật kinh điển khác.
Trước đây đối với những trường hợp đau bụng cấp, sau khi làm các xét nghiệm, siêu âm hay chụp CT mà vẫn không phát hiện ra bệnh lý thì người ta phải mổ ổ bụng ra để khám, vừa mất công lại vừa mất thời gian gây nguy hiểm cho người bệnh. Khi phương pháp NS ra đời đã giúp cho bác sĩ có thể kiểm tra nhanh ổ bụng, để xác định bệnh lý chính xác.
Đối với trường hợp ung thư người ta sử dụng phương pháp nội soi để đánh giá giai đoạn của ung thư, tình trạng di căn thế nào, có bao nhiêu khối u. Trường hợp bệnh nhân bị viêm ruột thừa thì nhờ phương pháp nội soi chúng ta vừa có thể phát hiện sớm để can thiệp và cũng có thể cấp cứu kịp thời cho những trường hợp viêm ruột thừa cấp.
Đặc biệt là phẫu thuật nội soi đã trở thành “tiêu chí vàng” trong việc cắt túi mật. Trước đây khi mổ hở người ta chỉ cắt túi mật cho trường hợp viêm ít hoặc chưa bị viêm còn hiện nay nhờ phẫu thuật nội soi người ta thực hiện trong mọi trường hợp như: cắt và điều trị viêm túi mật mãn tính, viêm túi mật cấp, hoại tử, có vết mổ cũ dưới hoặc trên rốn.
BS Nguyễn Hoàng Bắc, Phó Giám đốc Bệnh viện (BV) Đại học Y Dược TPHCM, Trưởng Trung tâm huấn luyện nội soi nhận xét, phẫu thuật nội soi đem lại nhiều lợi ích cho người bệnh như: tránh được những nguy hiểm mà mổ hở gây ra. Người bệnh ít đau, ít gây mất máu, giảm thiểu được những nguy cơ bị tai biến như tăng huyết áp, nhiễm trùng vết mổ, thoái vị vết mổ, bị căng da và cơ ở vết mổ, ảnh hưởng hô hấp. Chi phí điều trị thấp hơn so với mổ hở. Tính thẩm mỹ của phẫu thuật nội soi rất cao, khả năng hồi phục sức khỏe nhanh, thời gian nằm viện được rút ngắn.
Kết quả phẫu thuật nội soi tại BV Đại học Y Dược TPHCM cho thấy tỷ lệ thành công trong phẫu thuật nội soi rất cao. Đặc biệt là tỷ lệ thành công của phẫu thuật nội soi trong cắt lách là 100%. Tỷ lệ sót sỏi đường mật 100% trong mổ hở thì phẫu thuật nội soi giảm xuống còn 7,5%, đối với mổ ung thư trực tràng bằng nội soi đã giảm tỷ lệ tái phát từ 80% (mổ hở) xuống còn 5%... Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người ta đã tạo ra nhiều máy móc, phương tiện, công cụ để giúp cho việc phẫu thuật nội soi trở nên dễ dàng hơn và khắc phục dược những hạn chế trước đây.
Dạy nghề cho bác sĩ Tây
Trước đây, bác sĩ Việt Nam ra nước ngoài học phẫu thuật nội soi thì nay đã khác, Việt Nam nói chung, TPHCM nói riêng đang là một trong những cái nôi đào tạo bác sĩ, phẫu thuật viên phẫu thuật nội soi cho nhiều nước trên thế giới. PGS-TS Nguyễn Tấn Cường (bác sĩ đầu tiên thực hiện phẫu thuật mổ nội soi tại Việt Nam), Trưởng khoa gan - mật - tụy BV Chợ Rẫy cho biết, những năm qua, nhiều bác sĩ từ các nước có nền y tế khá phát triển như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, Pakistan và Australia đã tới BV học phẫu thuật nội soi. BV Chợ Rẫy đang tiếp nhận hơn 20 bác sĩ nước ngoài đến học phẫu thuật nội soi.
Tính đến thời điểm này, Khoa Ngoại tiêu hóa của BV Chợ Rẫy đã đào tạo phẫu thuật nội soi nâng cao trên 400 phẫu thuật viên Việt Nam và 120 bác sĩ nước ngoài.
Tại BV Đại học Y Dược TPHCM, từ năm 2003 đến nay, trung tâm huấn luyện nội soi đã mở hàng chục khóa đào tạo cho khoảng 300 bác sĩ, phẫu thuật viên nước ngoài đến học các kỹ thuật phẫu thuật nội soi. Đó chưa kể hàng trăm sinh viên y dược nước ngoài đến thực tập.
Bác sĩ Clemen Tsang (người Australia) tâm sự: Sau khi tham dự hội nghị phẫu thuật tiêu hóa và ung thư IASGO tại Trung Quốc, nghe bác sĩ Việt Nam trình bày những kỹ thuật mới mà y văn thế giới vẫn chưa đề cập đến và sau đó được chứng kiến các bác sĩ thực hiện kết hợp phẫu thuật nội soi và phẫu thuật qua ngả tự nhiên để cắt bỏ toàn bộ đại trực tràng bệnh nhân bị ung thư nên tôi quyết sang đây “tầm sư học đạo”.
Một bác sĩ người Pakistan khi chứng kiến các bác sĩ Việt Nam phẫu thuật, tạo hình thực quản bằng phương pháp nội soi giúp bệnh nhân có thể ăn uống sau 20 năm nhịn ăn do sơ ý uống nhầm hóa chất khiến thực quản bị teo và tắc nghẽn, đã xác nhận đây là kỹ thuật khó, rất ít quốc gia thực hiện.
VINH NGUYỄN