Quản tên trường hay chất lượng?

Bộ GD-ĐT đang lấy ý kiến cho dự thảo nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học, trong đó có quy định về nguyên tắc chung liên quan đến đặt tên trường đại học. Một trong số những quy định đó là bộ dự kiến không được sử dụng các từ, cụm từ mang tính "quốc gia" hoặc thể hiện vị thế đặc biệt để đặt tên trường gồm "quốc tế", "quốc gia", "Việt Nam", "Hồ Chí Minh", "International", "National", "State", trừ khi được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Không thể phủ nhận thực tế rằng, trong một thời gian dài khái niệm “quốc tế”, “quốc gia”… đã bị lạm dụng trong giáo dục đại học. Không ít cơ sở đào tạo tự gắn mác “quốc tế” trong khi chương trình, đội ngũ, chuẩn đầu ra vẫn thuần nội địa. Nhưng vấn đề đặt ra là: liệu cấm đoán từ ngữ có giải quyết được bản chất?

Tên gọi không tạo ra chất lượng. Và ngược lại, chất lượng cũng không được bảo chứng bằng việc loại bỏ vài từ trong giấy phép. Một trường đại học yếu kém sẽ không trở nên tử tế hơn chỉ vì không được dùng chữ “quốc tế”, “quốc gia”…

Ở đây, dự thảo nghị định quy định đang đi quá sâu vào phần ngọn - câu chữ, thay vì đặt ra chuẩn mực ở phần gốc: chuẩn đào tạo, chuẩn kiểm định, chuẩn công khai thông tin và chế tài nghiêm minh đối với hành vi sai phạm.

Không ít văn bản pháp quy ở nước ta trải qua nhiều "vòng đời" sửa đổi vì quy định quá cụ thể để rồi nhanh chóng lỗi thời trước thực tiễn mới liên tục phát sinh. Thành thử trong trường hợp này, việc cấm những từ như “quốc tế”, “quốc gia”… cho thấy cách tiếp cận chính sách vẫn thiên về kiểm soát hành chính hơn là đặt niềm tin vào hệ thống kiểm định chất lượng, cơ chế minh bạch thông tin và giám sát xã hội.

Trong bối cảnh giáo dục đại học đang hội nhập sâu, tên gọi không chỉ là danh xưng nội bộ mà còn là công cụ giao tiếp học thuật toàn cầu. Thế nên, thay vì cấm, chúng ta cần chuẩn hóa điều kiện để được sử dụng các thuật ngữ mang tính cam kết cao. Nếu không đạt chuẩn sẽ tự bị thị trường đào thải - bằng uy tín, bằng kiểm định độc lập, bằng xếp hạng, bằng lựa chọn của người học.

Nếu trường nào cố tình thoát ly ra ngoài những chuẩn mực đó, làm ăn gian dối, đào tạo không đạt chuẩn, kém chất lượng… sẽ phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, pháp luật về kinh doanh - thương mại, thậm chí trong trường hợp có yếu tố gian dối, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại sao những người nổi tiếng bán hàng kém chất lượng, quảng cáo sai sự thật có thể nhanh chóng bị xử lý nghiêm theo quy định pháp luật, trong khi những cơ sở giáo dục đại học quảng bá chương trình không đúng thực chất, thu học phí cao nhưng chất lượng đào tạo thấp lại hiếm khi bị xem xét trách nhiệm tương xứng dù hệ lụy và thiệt hại gây ra cho xã hội rất khôn lường?

Chưa kể, đôi khi quy định quá chi tiết sẽ làm mờ trách nhiệm cá nhân và tổ chức. Bởi khi mọi thứ đều được “viết sẵn”, người thực thi dễ rơi vào tâm thế làm đúng quy trình hơn là làm đúng bản chất. Và khi xảy ra hệ lụy, trách nhiệm thường bị đẩy ngược về lại phía… văn bản.

Vì thế, câu chuyện cấm từ “quốc tế”, “quốc gia”… để đặt tên trường do lo ngại nhập nhèm xét cho cùng còn là một phản xạ sợ rủi ro, sợ sai. Nhưng luật pháp không sinh ra để né rủi ro bằng cách thu hẹp đời sống. Nếu luật cứ tiếp tục đi theo con đường chi li hóa, cấm đoán từ ngữ, siết câu chữ thì sẽ rơi vào vòng lặp quen thuộc: thực tiễn đi trước - luật chạy theo - sửa đổi...

Vì vậy, vấn đề không nằm ở những từ “quốc tế” hay “quốc gia”. Vấn đề nằm ở việc chúng ta đang muốn một hệ thống giáo dục được quản trị bằng chuẩn mực hay bằng danh sách những từ ngữ bị đưa vào “vùng cấm”.

Tin cùng chuyên mục