Tọa đàm do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản tổ chức ngày 22-2.
Phát biểu đề dẫn, GS-TS Phạm Hồng Chương, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, trong hơn 3 thập kỷ qua, Việt Nam chuyển đổi mạnh mẽ từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn, thu nhập trung bình.
Tiếp nối thành công, Đảng và Chính phủ đặt mục tiêu Việt Nam trở thành “quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình cao" vào năm 2030 và "quốc gia phát triển có thu nhập cao” vào năm 2045. Để đạt được, nền kinh tế sẽ phải tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 7% trong vòng 20 năm tới. Việt Nam cũng đặt mục tiêu tăng trưởng xanh và toàn diện hơn, cam kết giảm 30% lượng khí thải metan và chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030, đồng thời đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo đánh giá chung của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, tăng trưởng mà Việt Nam có được trong thời gian qua phần lớn là do tác động của tự do hóa đúng thời điểm, lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào. Những ưu thế này không kéo dài mãi.
“Liệu Việt Nam có thể tiếp tục tăng trưởng nhanh và bền vững, dần bước vào nhóm các nước có thu nhập cao, như Hàn Quốc và Đài Loan đã làm được trong thời gian qua, hay chúng ta lại theo vết xe đổ của một số quốc gia lân cận?”, GS-TS Phạm Hồng Chương nêu.
GS-TS Ngô Thắng Lợi, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định, Việt Nam đã vượt được 2/3 “cửa ải” lớn. Thứ nhất là đảm bảo an ninh lương thực. Thứ 2 là vượt qua được mức thu nhập trung bình thấp, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Nhưng mục tiêu thách thức thứ 3 chưa vượt qua được là trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đặc biệt, quá trình phát triển cũng bộc lộ nhiều bất cập khi tăng trưởng đang có dấu hiệu “hụt hơi” theo thời gian. Biên độ tăng trưởng đang có xu hướng giảm và chưa đủ mạnh để tạo ra những đột phá trong thực hiện tiến bộ xã hội.
Chất lượng tăng trưởng cải thiện chậm dần (hiệu quả đầu tư, năng suất lao động), nhất là những năm gần đây và ở mức khá thấp so với các nước từng ở cùng thời kỳ (Hàn Quốc, Nhật Bản…), làm giảm khả năng gia tăng thu nhập.
Theo ông Ngô Thắng Lợi, trong thời gian tới, một trong những ưu tiên là thúc đẩy tăng trưởng nhanh cho vùng động lực, đồng thời xây dựng chính sách kết nối vùng động lực với các vùng khác, đặc biệt là các vùng chậm phát triển, để họ trực tiếp tham gia quá trình tạo thu nhập. Ngoài ra, cần tạo sân chơi bình đẳng cho cả 3 loại hình doanh nghiệp, chú trọng hơn nữa chính sách cho khu vực tư nhân, đề cao vai trò của các “sếu đầu đàn”.