
“Không có sách chúng tôi làm ra sách/Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, hai câu thơ này trong trường ca “Đường tới thành phố” của nhà thơ Hữu Thỉnh, được dùng là lời mở đầu của tập thơ “Một thời đánh giặc, một thời làm thơ”. Đó cũng chính là lời tâm sự tận đáy lòng của những người lính-nhà thơ, dù đã trải qua chiến tranh hay là người lính trong thời bình.
Những bài thơ của một thời nhớ mãi
Hiếm có một tuyển tập thơ nào lại có sự tuyển chọn khó khăn như tập thơ Một thời đánh giặc, một thời làm thơ, do NXB Kim Đồng thực hiện, nhân kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Đầu tiên là chỉ chọn đúng 65 bài thơ. Đây là một yêu cầu tưởng chừng đơn giản nhưng xin đừng quên, lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ 20 gần như là lịch sử của chiến tranh, từ chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ biên cương… Số lượng thơ của những người lính-nhà thơ trong thời chiến lớn đến nỗi trở thành dấu ấn thơ đồ sộ và đẹp nhất của văn học Việt Nam thế kỷ 20.
Đã thế, tuyển tập thơ còn phải chuyển tải cả những tác phẩm của các nhà thơ trong thời bình. Cuối cùng, nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình, người chịu trách nhiệm tuyển chọn tập thơ, đành phải “liều mình” chọn ra 65 bài thơ của 65 tác giả với những tiêu chí như phải là nhà thơ bộ đội, từng hay đang còn “đội mũ đeo sao”, với tác phẩm phải được nhiều người nhớ, nhiều người thuộc…
Và rồi người tuyển chọn sau khi chọn xong cũng phải rào trước đón sau rằng: “65 bài thơ trong tập sách chưa hẳn là những bài thơ hay nhất trong 65 năm xây dựng và chiến đấu của QĐND Việt Nam, nhưng là hay nhất của mỗi nhà thơ…”.
Nhưng điều được mọi người chú ý nhất chính vì đây là một tập thơ của những tác giả mà tuổi đời nhiều người không còn trẻ, có người bước vào tuổi thanh niên hơn 30 năm trước, có người là thanh niên nửa thế kỷ trước đây sáng tác những bài thơ chiến tranh, máu lửa cho thiếu nhi đọc.
Mở đầu tập thơ là nhà thơ Thu Bồn, người lính nghệ sĩ đã trải qua cả hai cuộc chiến tranh. Người kết lại là một nhân vật điển hình của văn nghệ thời bình, nhà thơ-tác giả Lưu Quang Vũ, và giữa họ là những bài thơ, những tác giả đầy quen thuộc như Quang Dũng với Tây tiến, Phạm Tiến Duật cùng Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây hay Đồng chí của Chính Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi…

Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Em ơi rất có thể/Anh chết giữa chiến trường/Đôi môi tươi đạn xé/Chưa bao giờ được hôn/Nhưng dù chết em ơi/Yêu em anh không thể/Hôn em bằng đôi môi/Của một người nô lệ. Đó là những câu thơ trong bài thơ Hôn của nhà thơ Phùng Quán, viết năm 1956 nhưng đến tận bây giờ vẫn để lại cho người đọc những tâm trạng đầy xúc động.
Những người lính ra trận không phải là những người máy vô tri, họ là những chàng trai cô gái tràn đầy tình yêu, nhiệt huyết, họ mang một trái tim chất chứa yêu thương nhưng cũng mang cả trong đó sự kiêu hãnh, tự hào của những người con của một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục. Và tình yêu của họ trong chiến tranh luôn có một cách thể hiện riêng, khắc sâu vào lịch sử văn học của đất nước.
Câu thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh không phải ngẫu nhiên được chọn để thay lời mở đầu: Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình. Cuộc đời người lính giành độc lập, bảo vệ tự do cho Tổ quốc, có đầy đủ sự hào hùng cùng bi tráng mà những người lính-nhà thơ đã mang hết sức mình chuyển tải vào những vần thơ để đời. Nhà xa mặt trận càng xa/Gặp nhau lần nào cũng vội, câu thơ của nhà thơ Đỗ Trung Lai trong bài Đêm sông Cầu chính là một cách thể hiện đầy khéo léo như vậy.
Và 65 bài thơ của 65 người lính-nhà thơ, dù con số này là rất ít trong kho tàng thơ ca của người lính cách mạng, nhưng với 65 tác giả, 65 góc nhìn riêng biệt cũng đã góp phần đưa bạn đọc đến với những người lính của một thời đánh giặc, một thời làm thơ, đầy ác liệt nhưng cũng không thiếu lãng mạn, yêu đời.
TƯỜNG VY