Có hay không thị trường tranh Việt Nam - là câu hỏi lớn mà có lẽ lâu nay không ít người quan tâm tìm hiểu, nhằm tìm một lối ra khả thi cho nền mỹ thuật nước nhà. Một thực tế ai cũng phải nhìn nhận là cho đến nay, thị trường tranh Việt Nam mới có thể tạm gọi là thể nghiệm chứ chưa chạm đến sự chuyên nghiệp.
Tự thân vận động
Không phải đến thời điểm đối mặt với suy thoái kinh tế mà từ lâu rồi, hoạt động kinh doanh tác phẩm nghệ thuật, mỹ thuật luôn trầm lắng. Tại các thành phố lớn như TPHCM, Hà Nội.. phần lớn các gallery sống được với tranh trang trí với những mô típ tạo hình quen thuộc: hoa lá, phúc lộc, phong cảnh, thiếu nữ… trong khi các tác phẩm nghệ thuật đích thực thì “vạn người xem có mấy người mua”. Những người có tiền, có điều kiện thì phần vì không hiểu biết về tranh hoặc không mặn mà với tranh. Ngược lại, nhiều người yêu tranh thực sự thì không có khả năng mua, trong khi ở nhiều nước, xét ở góc độ kinh doanh thì đây là một kênh đầu tư sinh lợi không kém gì bất động sản. Nghịch lý này cứ mãi tồn tại, các gallery phải tự thân vận động để tồn tại. Dù các gallery vẫn đều đặn có những triển lãm giới thiệu tác phẩm mới nhưng khách mua tranh phần lớn lại là người nước ngoài, trong khi để có một thị trường tranh Việt Nam đúng nghĩa phải có khách hàng trong nước và điều đó đến nay vẫn chỉ là mong ước.
Có nhiều nguyên nhân khiến thị trường tranh trong nước vẫn mãi giậm chân tại chỗ. Có người cho rằng, tranh Việt không còn sự tươi mới so với thời kỳ đầu đổi mới, mở cửa; người khác lại bảo nhiều tác giả mải mê theo đuổi các yếu tố hiện đại mà vô tình làm nhạt nhòa bản sắc; chưa kể nạn tranh nhái, tranh sao chép hàng loạt, tranh giả tràn lan… Ngoài ra, như một nhà sưu tập tranh nhận xét: Những hoạt động nhằm giới thiệu tranh Việt ra với bạn bè trong khu vực, thế giới vẫn theo kiểu tự phát, phụ thuộc vào các mối quan hệ cá nhân của họa sĩ hoặc gallery chứ chưa được tổ chức đàng hoàng, chưa được giới thiệu, quảng bá một cách bài bản, dài hơi, có kế hoạch chiều sâu để ngày càng thu hút sự quan tâm của công chúng trong nước đồng thời thâm nhập, chinh phục những thị trường trong khu vực.
Để làm được điều đó, với tư cách là cầu nối giữa các tác giả với các nhà sưu tập, những người yêu thích tranh, các gallery cần phải được đầu tư đúng mức, hoạt động thật sự chuyên nghiệp. Không chỉ trưng bày và kinh doanh tranh, gallery còn là nơi cung cấp thông tin, kiến thức bổ ích về mỹ thuật để kích thích nhiều người đến xem, vun đắp tình yêu nghệ thuật. Chỉ khi hiểu rõ giá trị của một tác phẩm và yêu thích nó thì người ta mới mong muốn được sở hữu tác phẩm ấy. Một nguyên nhân cũng rất quan trọng nữa là Việt Nam thiếu những người thẩm định, phát hiện tác giả và tác phẩm chuyên nghiệp (còn gọi là giám tuyển hay curator). Ở nhiều nước, chính những người này phát hiện ra nhiều nghệ sĩ có tiềm năng và giới thiệu họ với các nhà phê bình mỹ thuật, những người yêu nghệ thuật, với công chúng và dư luận nói chung, từ đó mới dẫn đến thành công về mặt thương mại và bán được tranh. Ở TPHCM, các gallery theo khuynh hướng nghệ thuật đương đại, có giám tuyển chuyên nghiệp, thường xuyên tổ chức những triển lãm giao lưu với nghệ sĩ nước ngoài, nghệ sĩ Việt kiều, thường không nhiều.
Hy vọng tương lai
Là một trong những gallery có thâm niên nhất tại TPHCM, Tự Do là một trong những địa chỉ mỹ thuật có uy tín, được nhiều người trong giới biết đến. Có thể nói, nhờ tình yêu lớn dành cho nghệ thuật mà ông bà Đặng Hải Sơn - Trần Thị Thu Hà mới có thể “cầm cự” để duy trì phòng tranh suốt gần 25 năm qua. Ông Đặng Hải Sơn chia sẻ: “Kinh doanh tranh là một ngành khắt khe, có mức độ rủi ro cao. Các triển lãm tranh mà gallery chúng tôi thực hiện đều giới thiệu những tác phẩm có chất lượng, nhưng phong cách sáng tác của mỗi họa sĩ khác nhau nên độ thu hút khách cũng khác nhau, không thể lấy số lượng khách hàng mua tranh làm thước đo tài năng của họa sĩ”. Ông Hải Sơn nói thêm, ở các nước phát triển, thị trường tác phẩm nghệ thuật chỉ thật sự bền vững khi có được 70% khách hàng nội địa, trong khi hiện lượng khách hàng Việt Nam mua tranh thì chưa được đến mức này. Vậy nhưng, ông Sơn vẫn lạc quan tin con số ấy trong tương lai sẽ khả quan hơn. Gần đây, đáng chú ý là có nhiều khách hàng mua tranh là doanh nhân – đối tượng có tiềm lực góp phần đáng kể thúc đẩy thị trường tranh trong nước phát triển.
Vài năm gần đây, các triển lãm tại đã giới thiệu nhiều gương mặt trẻ ấn tượng, thu hút khách thưởng lãm, có doanh số khả quan có thể kể như: Võ Xuân Huy, Bùi Tiến Tuấn, Nguyễn Nghĩa Cương, Trần Thế Vĩnh, Nguyễn Trung, Nguyễn Tấn Cương, Đỗ Hoàng Tường, Hoàng Dương Cầm, Trần Văn Thảo…
Có một thực tế ai cũng nhận thấy là giá trị nghệ thuật của tranh Việt rất cao, nhưng hầu như giá tranh Việt trong khu vực và trên trường quốc tế còn quá khiêm tốn. Còn nhớ năm 1990, khi UBND TPHCM quyết định mua bức tranh Vườn xuân Trung Nam Bắc của danh họa Nguyễn Gia Trí tương đương giá 100.000 USD, nhằm mục đích giữ lại kiệt tác của họa sĩ nổi tiếng, đã vấp phải không ít những dư luận trái chiều, thậm chí là “bút chiến” đến tóe lửa. Thế nhưng ít ai biết rằng, trước đó, đã có một nhà sưu tập người Bỉ có ý mua lại bức tranh này với giá 1 triệu USD! Nhiều quốc gia trên thế giới ngỏ ý muốn thuê Vườn xuân Trung Nam Bắc để triển lãm mà không được. Gần đây nhất, tại phiên đấu giá do Christie’s International tổ chức ở Hồng Công, tác phẩm tranh lụa Người bán gạo của danh họa Nguyễn Phan Chánh đã được bán với giá kỷ lục hơn 8 tỷ đồng, khẳng định giá trị tranh Việt trên trường quốc tế. Tuy nhiên, so với lớp họa sĩ bậc thầy, các danh họa thuộc lứa đầu tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, những thế hệ tiếp nối, tên tuổi trẻ tạo ấn tượng trên trường quốc tế hầu như không đáng kể.
Bà Mã Thanh Cao, Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật TPHCM, nhìn nhận, một số tác giả háo hức thể hiện tính hiện đại mà vô tình làm nhạt nhòa những bản sắc Việt trong tác phẩm của mình. Trong khi đó, những bản sắc đặc trưng của văn hóa Việt Nam qua tác phẩm là điều mà nhiều nhà nghiên cứu, sưu tập tranh thế giới quan tâm và ưa chuộng.
MINH AN