Tại hội thảo “Làm ăn với Mỹ phải biết lobby” tổ chức ngày 10-4, bà Tôn Nữ Thị Ninh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội đã chỉ ra rằng, lobby (còn gọi là vận động hành lang) đã được hầu hết các nước sử dụng nhưng tại VN đang có sự ngộ nhận và thiếu hiểu biết về lobby.
Lobby là luật chơi, là vận động, tạo sức ép nhằm tạo ra một lợi ích nào đó, trong khi tại VN hoạt động này còn mang nặng tính phong bì, lén lút. Trên thực tế, hiệu quả, sức mạnh của việc lobby của chính phủ để VN vào WTO và có được Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Mỹ vừa qua là rất rõ ràng.
Luật sư tư vấn các vấn đề thương mại và đầu tư quốc tế của Mỹ William Carnahan khẳng định, lobby là công việc phức tạp, đòi hỏi biết mình biết ta và tuyệt đối không phong bì hay đóng góp quỹ cho hoạt động chính trị của một tổ chức nào. Ở Mỹ, một nền kinh tế được điều hành và quyết định bởi phần lớn những cuộc lobby mang lại lợi ích cho các bên.
Đối với các DN, lobby đã mang lại rất nhiều thuận lợi, lợi ích trong hoạt động giao thương. Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hội Dệt may thêu đan TPHCM, chứng minh, sở dĩ Ủy ban châu Âu (EC) đưa ra mức thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng giày mũ da của VN là 10% (trong khi Trung Quốc là 16,5%) thì không thể phủ nhận vai trò của việc tổ chức các cuộc lobby đối với các ủy viên EC và việc chọn nước thứ 3 để tham chiếu về giá thành sản phẩm.
“Tương tự, đối với ngành dệt may, tới đây, ngày 22-4 khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ mở phiên điều trần đầu tiên thì phía VN cũng đang khởi động kế hoạch lobby cần thiết đối với các bên liên quan” – ông Kiệt nói. Tại hội thảo, hầu hết diễn giả kiến nghị, đã đến lúc VN cần phải có những điều luật quy định rõ ràng để phát triển nghề lobby một cách bài bản, khoa học.
Ông Trần Sĩ Chương, Giám đốc Tư vấn chiến lược phát triển DN Công ty L&A (nguyên chuyên viên cố vấn kinh tế, ngân hàng và trợ lý pháp lý ngoại giao và ngoại thương quốc hội Hoa Kỳ) nhìn nhận, kim ngạch mua bán hai chiều Việt – Mỹ năm 2006 đã đạt 9,7 tỷ USD, trong đó VN xuất khẩu sang Mỹ 8,6 tỷ USD và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này là 25%/năm.
Tuy vậy, nếu muốn làm ăn quy mô lớn và lâu dài trên thị trường này thì cần phải có một chiến lược, kế hoạch và chương trình lobby cụ thể với Mỹ. Nếu không có phương tiện để lobby ở Mỹ thì DN trong nước không có khả năng tiên đoán những hậu quả khó lường cũng như sẽ đối phó một cách bài bản và có hiệu quả khi bị “gây sựï” từ những nhóm đặc quyền ở Mỹ.
Sự cố cá basa, cá tra xuất khẩu vào Mỹ từ năm 2002 đã gây ra tổn thất đáng kể cho ngành thủy sản VN là một đơn cử điển hình chỉ vì chúng ta chưa biết cách lobby để bảo vệ quyền lợi của mình. “Lobby ở Mỹ là một vấn đề mà nếu không biết lo xa tất sẽ có buồn gần, cái giá phải trả sẽ rất lớn, từ những thiệt hại cụ thể đến những hệ quả lâu dài hơn” – ông Chương kết luận.
TH.H.