
PHÓNG VIÊN: Thưa ông, theo dõi tình hình đầu tư nước ngoài trong suốt thời gian qua, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều yếu tố bất định như hiện nay, ông có nhận định gì?
TS PHAN HỮU THẮNG: Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 7, Việt Nam đã thu hút được hơn 24,1 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 27,3% và 13,6 tỷ USD vốn giải ngân, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2024. Có thể nói dòng vốn FDI vào Việt Nam vẫn đang duy trì tích cực, bất chấp những tác động bất lợi bên ngoài.
Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, rủi ro địa chính trị và chính sách toàn cầu vẫn hiện hữu, nhất là các biện pháp phòng vệ thương mại. Trong đó, việc Mỹ áp thuế đối ứng 20% đối với một số mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam, ảnh hưởng là không thể tránh khỏi.
Gần đây, chúng ta chưa thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao. Tháng 7, có 266 dự án đầu tư mới, với vốn đăng ký mới đạt 743,9 triệu USD, giảm 67,3% so với tháng 6. Tính chung 7 tháng đầu năm 2025, vốn đăng ký mới đạt trên 10 tỷ USD, giảm 11,1% so với cùng kỳ.
Có phải vì lo ngại trước những tác động bất lợi đối với dòng vốn FDI mà chúng ta đang có chủ trương tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài (OFDI)?
Không hẳn. Tôi cho rằng, hoạt động đầu tư nước ngoài nên phát triển cả 2 hướng: đầu tư vào và đầu tư ra. Giống như một người muốn đi xa thì phải đi bằng cả đôi chân khỏe mạnh, cân đối. Nhưng trước đây, khi nền kinh tế chưa thực sự phát triển, các doanh nghiệp còn non trẻ, thiếu cả tiềm lực lẫn kinh nghiệm thương trường, thì dù muốn cũng chưa thể “đánh bắt cá trên đại dương xanh” được.
Còn hiện nay, ông đánh giá tình hình thế nào?
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới hiện nay, cộng với sự năng động phát triển chung của cả nền kinh tế, chắc chắn khu vực kinh tế tư nhân sẽ tìm hướng mở rộng thị trường ra bên ngoài, nếu các trở ngại về thể chế, chính sách quản lý nhà nước phía Việt Nam cũng như các yếu kém của nền kinh tế là điểm đến đầu tư (chất lượng nguồn nhân lực, năng lực quản lý...) được tháo gỡ sớm.
Trong 7 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (bao gồm vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 528,5 triệu USD. Vốn đầu tư lũy kế của Việt Nam ra nước ngoài tính đến cuối tháng 7-2025 khoảng 23,12 tỷ USD. Theo địa bàn tiếp nhận, nhiều dự án OFDI của Việt Nam tập trung vào các nước Đông Nam Á do khoảng cách địa lý, văn hóa, hiệp định và rào cản gia nhập thấp hơn. Khu vực châu Á khác và châu Phi, châu Mỹ cũng có một vài dự án lớn (mua lại, dự án khai khoáng, đầu tư nông nghiệp chuỗi), nhưng không phổ biến như ASEAN.
Nhìn chung, OFDI còn khá khiêm tốn so với FDI; ít dự án chiến lược công nghệ cao, tuy xu hướng này đang thay đổi tích cực (đã xuất hiện những dự án công nghệ cao, dự án công nghiệp chế biến, chế tạo…từ năm 2024). Chúng ta cũng đã có những công ty thu được lợi nhuận đáng kể từ các dự án OFDI như: Viettel, FPT, Vinamilk cùng một số doanh nghiệp trong các lĩnh vực như nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế biến, chế tạo.
Bên cạnh chính sách bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận OFDI như đã đề cập trên, ông có thêm đề xuất gì để thúc đẩy OFDI từ Việt Nam?
Cần nói rõ là bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận OFDI không phải là buông lỏng quản lý, mà thay vào đó, nhà đầu tư đăng ký với Ngân hàng Nhà nước về việc chuyển tiền ra nước ngoài sau khi họ có đủ hồ sơ chấp thuận đầu tư của nước ngoài (giấy phép đầu tư, chứng nhận thành lập doanh nghiệp hoặc hợp đồng góp vốn, mua cổ phần vào công ty nước ngoài...). Như thế là đảm bảo yêu cầu kiểm soát ngoại hối.
Trước khi nêu một số khuyến nghị với cơ quan nhà nước, tôi đặc biệt muốn nhắn gửi đến các doanh nghiệp Việt Nam khi thực hiện OFDI là cần nắm vững các quy định pháp luật của Việt Nam và thị trường “đích” trong lĩnh vực này, nhất là các hình thức OFDI; việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài; chuyển lợi nhuận về nước. Đó là những vấn đề các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến hành đầu tư ở nước ngoài thường vướng mắc nhất.
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, tôi cho rằng nên xác định mục tiêu chiến lược ngắn - trung hạn (đến năm 2030) là chuyển đổi từ OFDI “vốn lớn - tài nguyên” sang OFDI “giá trị cao”, nghĩa là ưu tiên hỗ trợ các dự án công nghệ, R&D, chuỗi cung ứng toàn cầu, trung tâm dịch vụ (giá trị gia tăng cao); khuyến khích thành lập liên minh, liên doanh, M&A ra nước ngoài để tạo tiền đề cho dự án chiến lược sau này. Nhà nước (hoặc các quỹ công - tư) cần cung cấp cơ chế bảo hiểm rủi ro chính trị/tài chính, hỗ trợ trước đầu tư, có thể thông qua hình thức quỹ hỗ trợ/bảo hiểm rủi ro… Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với nhà đầu tư, cả về mặt tinh thần.
Trong dài hạn (đến năm 2045), Việt Nam cần tập trung xây dựng một số tập đoàn thành nhà tích hợp/nhà đầu tư toàn cầu ở một vài ngành then chốt (năng lượng sạch, viễn thông, công nghệ thông tin, chuỗi giá trị chế tạo, logistics); chuyển đổi cơ cấu OFDI từ khai khoáng/nông nghiệp sang công nghệ cao, R&D, dịch vụ tài chính thanh toán xuyên biên giới, năng lượng tái tạo... Đồng thời, xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện: pháp luật, quỹ, mạng lưới đại sứ quán/thương vụ, nguồn nhân lực... để doanh nghiệp Việt Nam khi ra nước ngoài được hỗ trợ từ đầu.