![]() |



Từ thực tế phát triển (không đồng đều) của nhân loại, các nhà khoa học gọi sự phát triển của nhân loại từ năm 1760 đến nay là thời kì các cuộc cách mạng công nghiệp, khởi đầu từ nước Anh giữa thế kỉ 18. Các cuộc cách mạng công nghiệp:
- Đã dựa trên các thành tựu về khoa học, công nghệ tương ứng (tri thức) với trình độ ngày một nâng cao, sự ứng dụng các khoa học và công nghệ
- Để tạo ra:
- Vật liệu mới
- Công cụ mới (thay thế và bổ sung cho bàn tay con người, sức cơ bắp con người, các giác quan con người, khả năng suy nghĩ của con người)
- Phương pháp, công nghệ mới
- Nguồn năng lượng mới được sử dụng.

- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 1, 1760 đến khoảng 1870, về mặt khoa học chủ yếu là dựa trên các thành tựu về vật lý, hóa học, tạo ra sắt, thép với quy mô lớn và năng suất cao, máy hơi nước, máy dệt, xe lửa, tàu thủy chạy bằng máy hơi nước, thúc đẩy hệ thống giáo dục, y tế phát triển, ra đời các ngân hàng. Về mặt kỹ thuật, có thể gọi đơn giản hóa Cách mạng công nghiệp lần thứ 1 là “Giai đoạn cơ khí hóa”, kéo dài khoảng 110 năm.
- Cách mạng công nghiệp lần thứ 2, 1870 - 1945, về mặt khoa học chủ yếu dựa trên các thành tựu về vật lý (vật lý điện tử, nhiệt động học), hóa học (hóa dầu), gia công cơ khí chính xác, tạo ra động cơ đốt trong, động cơ điện, nhà máy điện, hệ thống truyền tải điện, khai thác dầu, khí, công nghiệp ô tô, máy bay, xe lửa điện, điện tín và điện thoại, tên lửa, tàu ngầm, sản xuất hàng loạt. Về mặt kỹ thuật, có thể gọi đơn giản hóa Cách mạng công nghiệp lần thứ 2 là “Giai đoạn Điện khí hóa”, kéo dài khoảng 75 năm (các khoa học và ứng dụng gắn với Cơ khí hóa vẫn tiếp tục phát triển).
- Cách mạng công nghiệp lần thứ 3, 1945 - 2010, về mặt khoa học dựa trên thành tựu của nhiều ngành khoa học: vật lý (bán dẫn, laser, hạt nhân, lượng tử), hóa học (vô cơ, hữu cơ, hóa sinh, na nô), sinh học (công nghệ gen), thiên văn học, khoa học vũ trụ, khoa học sức khỏe, toán học, khoa học kinh tế, tạo ra các thiết bị vi điện tử, laser, máy tính điện tử, Internet, hệ thống điều khiển tự động, người máy, tàu vũ trụ, tầu ngầm hạt nhân và nhà máy điện hạt nhân, vật liệu na nô, điện gió, điện mặt trời… Về mặt kỹ thuật có thể gọi đơn giản hóa Cách mạng công nghiệp lần thứ 3 là “Giai đoạn Tự động hóa, Tin học hóa và Internet”, kéo dài khoảng 65 năm (Các khoa học và ứng dụng gắn với Điện khí hóa vẫn tiếp tục phát triển).
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, từ 2010, chưa biết bao giờ kết thúc và chuyển sang Cách mạng công nghiệp lần thứ 5. Có thể dự báo kết thúc khoảng 2065 - 2070 (kéo dài khoảng 55 - 60 năm).
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, 4.0, về khoa học dựa trên tất cả các ngành khoa học và ứng dụng khoa học gắn với quá trình Cơ khí hóa, Điện khí hóa, Tự động hóa - Tin học hóa và Internet (đã diễn ra trong 250 năm 1760 - 2010), đồng thời dựa trên các lĩnh vực khoa học mới như: Quang lượng tử, vật lý hạt nhân; Giải mã và biến đổi gen; ngôn ngữ học; trí tuệ nhân tạo; điện toán đám mây, dữ liệu lớn; chuỗi khối; Internet vạn vật … từ đó tạo ra các thiết bị thông minh được nhúng trí tuệ nhân tạo, có thể tự động kết nối với nhau, sử dụng ngôn ngữ tự nhiên để điều khiển các hoạt động của thiết bị. Các thiết bị, máy móc được trang bị cảm biến ánh sáng, nhiệt độ, âm thanh, hóa chất, camera với bộ nhớ lớn, từ đó các thiết bị, máy móc có thể nhận dạng môi trường xung quanh, có thể nhận ra các quan hệ nhân quả, có thể học (học máy), từ đó có thể tác động trở lại môi trường, người đang giao tiếp một cách tối ưu (theo mục tiêu đã được đặt ra). Ô tô không người lái, máy bay không người lái, dịch tự động các ngôn ngữ, thiết bị hiểu tiếng nói, hoạt động theo lệnh lời nói và trả lời bằng lời nói và công nghệ in 3 chiều (3D) là một số sản phẩm tiêu biểu của giai đoạn đầu Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (2010 - 2020).
Các doanh nghiệp sử dụng các công nghệ mới của giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ 4 có khả năng cung cấp các giải pháp mới cho nhu cầu của các ngành kinh tế và toàn xã hội, phục vụ người dân một cách hiệu quả cao, từ đó có lợi nhuận lớn và phát triển rất nhanh. Bảng 2 cho thấy 10 doanh nghiệp có doanh số lớn nhất toàn cầu ở 2 thời điểm năm 2006 và 2016.

Như vậy, chỉ trong 10 năm, 2006 (trước 2010) và 2016 (sau 2010), các công ty dựa trên công nghệ mới đã chiếm 8/10 công ty có doanh thu lớn nhất thế giới, trong khi 2006 có tới 8/10 công ty Dầu khí, Ngân hàng là các công ty có doanh thu lớn nhất.
Việc áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) theo dự báo của các tổ chức tư vấn quốc tế sẽ đem lại gia tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh ở tất cả các ngành nghề và kéo theo tăng tỷ suất lợi nhuận so với trường hợp không ứng dụng trí tuệ nhân tạo, Bảng 3.

Việc gia tăng tỷ suất lợi nhuận do áp dụng trí tuệ nhân tạo từ 6% đến 21% là rất đáng kể với các doanh nghiệp, là thời cơ để các doanh nghiệp cạnh tranh, mở rộng thị phần, tăng trưởng nhanh hơn. Ngược lại các doanh nghiệp không áp dụng trí tuệ nhân tạo sẽ mất dần năng lực cạnh tranh, nguy cơ bị đào thải khỏi thị trường.
Có thể nói, việc ứng dụng rộng rãi, triệt để trí tuệ nhân tạo, sẽ tạo nên đột phá về tăng năng suất lao động ở tất cả các lĩnh vực và vì thế mà tăng năng suất lao động toàn xã hội.
Vì vậy, từ 2017 đến 2020, 50 nước trên thế giới đã xây dựng và công bố chiến lược quốc gia về phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Các ứng dụng các công nghệ 4.0 mới trải qua 10 năm đầu tiên trong chu kỳ phát triển khoảng 55 - 60 năm, do đó còn quá sớm để nhận ra đầy đủ các công nghệ tạo đột phá cho phát triển cho giai đoạn này.

Trong 50 nước đã công bố chiến lược phát triển trí tuệ nhân tạo có 7 nước thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp (2020): Pakistan (GDP/người 1.482 USD), Ấn Độ (1.877 USD), Kenya (2.075 USD), Tunisia (3.295 USD), Philippin (3.373 USD), Việt Nam (3.498 USD), Indonesia (4.038 USD). Điều đó chứng tỏ mức độ thu nhập đầu người cao không phải là điều kiện tiên quyết để triển khai nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Theo chúng tôi, 7 điều kiện để có thể nghiên cứu, phát triển ứng dụng hiệu quả trí tuệ nhân tạo (TTNT) là:1. Quốc gia có nền tảng công nghiệp CNTT-TT tương đối mạnh, đã số hóa cơ bản tài nguyên dữ liệu quốc gia.
2. Có nguồn nhân lực phong phú, trình độ ngày càng cao, đặc biệt trong lĩnh vực toán học, CNTT-TT và TTNT.
3. Quốc gia có chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng TTNT hợp lý.
4. Hình thành hệ sinh thái TTNT của quốc gia, với một số trung tâm công nghệ 4.0 và TTNT của đất nước làm động lực.
5. Phát triển 1 số trung tâm máy tính hiệu năng cao, đạt trình độ quốc tế (siêu máy tính).
6. Hợp tác quốc tế mạnh mẽ về đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng TTNT, thu hút đầu tư nước ngoài về nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm công nghệ 4.0 và TTNT.
7. Coi trọng xuất khẩu các sản phẩm và dịch vụ công nghệ 4.0 trong đó có các sản phẩm, giải pháp ứng dụng TTNT.
Đối chiếu với tình hình đất nước hiện nay, từ bài học của 20 năm phát triển vượt bậc Công nghiệp CNTT-TT, chúng tôi thấy Việt Nam đang có nhiều tiền đề quan trọng để nhanh chóng tạo nên 7 điều kiện để phát triển và ứng dụng hiệu quả TTNT, tạo đột phá tăng năng suất lao động của đất nước và đổi mới mô hình tăng trưởng trong 25 năm tới.
1. Chúng ta có nền tảng CNTT-TT tương đối mạnh để thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0, bước vào “Giai đoạn phổ cập TTNT” trong 25 năm tới. Hiện nay Công nghiệp CNTT-TT là ngành kinh tế lớn nhất Việt Nam, đóng góp 14,3% GDP. Có thể dự báo đến 2025 tỉ trọng này sẽ trên 22%. Việt Nam đã bắt đầu triển khai dịch vụ viễn thông 5G từ 2020, là một trong 10 nước đầu tiên trên thế giới. Số thuê bao điện thoại di động trên 100 triệu dân đã vượt 100% từ năm 2009, hiện nay là 140%. Có 70 triệu người sử dụng Internet, chiếm 72% dân số.
Yếu kém của Việt Nam ở đây là chưa số hóa đầy đủ các tài nguyên dữ liệu quốc gia và của các doanh nghiệp, tổ chức. Tuy nhiên, tháng 6.2020 Chính phủ Việt Nam đã công bố Chương trình Quốc gia về chuyển đổi số của Việt Nam.
Theo Forbes, Việt Nam giá trị kinh tế số của Việt Nam từ 2015 đến 2019 đã tăng 4 lần, từ 3 tỷ USD lên 12 tỷ USD.
2. Nguồn nhân lực sẽ tiếp tục là một lợi thế của Việt Nam trong quá trình “phổ cập TTNT”, mặc dù giai đoạn đầu 2020 - 2025 còn nhiều khó khăn do thiếu hụt nhân lực có chất lượng.
Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 700 người làm việc ở lĩnh vực TTNT, trong đó có 300 chuyên gia, còn ở nước ngoài có khoảng 900 người Việt Nam đang làm việc ở lĩnh vực này.
Năng lực đào tạo Đại học ngành CNTT-TT của Việt Nam hiện nay là hơn 51.000 sinh viên/năm, đào tạo nghề (Cao đẳng, trung cấp) ngành CNTT-TT là hơn 68.000 học viên/năm, tổng cộng là khoảng 120.000 học viên, sinh viên/năm. Nếu chưa tính tới việc tiếp tục mở rộng quy mô đào tạo, thì đến năm 2030, Việt Nam sẽ có thêm hơn 1,2 triệu nhân lực CNTT-TT, tức là gấp 2 lần số nhân lực CNTT-TT hiện nay.
Nếu Việt Nam có kế hoạch phát triển nhân lực tốt, hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, thực hiện đại học chia sẻ và hợp tác với nước ngoài để đào tạo có chất lượng cao, thì đến 2045 chúng ta có thể có 3,5 triệu người làm việc trong CNTT-TT và TTNT, trong đó hơn nửa triệu người làm việc về TTNT.
Việt Nam vừa hoàn thành “Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển Toán học 2010 - 2020”, đưa xếp hạng Toán học Việt Nam từ vị trí 55 trên thế giới lên thứ 35 - 40, đứng đầu các nước ASEAN từ 2014. Ngày 22-12-2020, Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển Toán học 2021 - 2030”. Đây là tiền đề rất quan trọng để hình thành “Hệ sinh thái Toán học Việt Nam”, làm tiền đề rất cơ bản cho “Hệ sinh thái Trí tuệ nhân tạo Việt Nam”.
3. Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng đề án “Thành phố Thủ Đức trở thành Đô thị sáng tạo, tương tác cao”, là Thành phố kinh tế tri thức, Thành phố TTNT lớn của Việt Nam, với dân số hiện nay là hơn 1 triệu người và quy hoạch tới 2035 sẽ là hơn 2 triệu người. Ngoài tài nguyên 4.0 hiện có của Thành phố Thủ Đức hiện nay: Khu Công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh (thành công nhất hiện nay với tổng đầu tư từ các doanh nghiệp khoảng 8 tỷ USD, xuất khẩu 2020 khoảng 20 tỷ USD, 42.000 lao động chất lượng cao, đang triển khai xây dựng giai đoạn 2 mở rộng thêm khoảng 160ha (Công viên Khoa học), cụm Đại học (Đại học Quốc gia, Đại học Sư phạm kỹ thuật Thủ Đức, Đại học Nông Lâm, Đại học Fulbright) với hơn 100.000 sinh viên và hơn 2.000 tiến sĩ là giảng viên), Khu Đô thị mới Thủ Thiêm với Trung tâm tài chính khu vực của Việt Nam, hệ thống giao thông thuận tiện (đường bộ, Tàu điện ngầm, Cảng Container lớn nhất Việt Nam Tân cảng, Sân bay Long Thành và Tân Sơn Nhất), Công viên lịch sử - văn hóa dân tộc (100ha), sân golf Thủ Đức (300ha), sẽ có thêm các hạ tầng 4.0 mới: Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo lớn nhất Việt Nam, Công viên phần mềm Quang Trung Thành phố Thủ Đức, Trung tâm tính toán hiệu năng cao (siêu máy tính) hiện đại nhất ASEAN, Nhà hát giao hưởng, nhạc và vũ kịch, Trung tâm Triển lãm quốc tế. Thành phố Thủ Đức là Thành phố kinh tế tri thức, là cửa ngõ của Thành phố Hồ Chí Minh để kết nối, lan tỏa, hợp tác với Đồng Nai và Bình Dương tạo nên Vùng Công nghiệp 4.0 lớn nhất của Việt Nam.
Giai đoạn 25 năm phát triển sắp tới của Việt Nam 2020 - 2045 nằm trọn vẹn trong hơn nửa đầu giai đoạn “Phổ cập TTNT” của nhân loại (2010-2055) với đột phá chưa từng có về tăng năng suất lao động. Với kết quả, bài học của 20 năm phát triển vượt bậc Công nghiệp CNTT-TT, chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ tạo được phát triển đột phá về năng suất lao động và chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong 25 năm tới.
...................................
Nguồn:
1. Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam 2010; NXB Thông tin và Truyền thông 2010.
2. Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam 2019; Bộ TT và TT, 2020.
3. Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới 2030 và 2045; Bộ KH và CN Việt Nam, CSIRO, 2019.
4. Cục Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh, 2020.
5. “National Strategy for Artificial Intelligence”, www.msit.go.kr, March 2020.