
Tưởng trở mình, toàn thân anh lại đau nhức. Đã mấy tháng rồi sau ngày bị kết án tử hình anh không còn bị thêm trận đòn nào, nhưng với bao nhiêu đòn hiểm độc của bọn ác ôn, bây giờ ngày nào anh cũng nhức nhối, quặn đau. Từ Sài Gòn ra đây anh không gặp bạn bè cũ, bởi anh đã vào phòng chờ ngày ra pháp trường.

Minh họa: A.Dũng
Mấy hôm trước phòng tử tù còn ba bốn người, nhưng họ đã ra pháp trường. Anh ra đảo có một mình và giờ đây cũng có một mình trong phòng này. Phòng tối om.
Phía trên cao là một lỗ hổng có chấn song sắt. Ánh sáng qua đó lọt vào phòng và tiếng động bên ngoài cũng đến với anh từ cửa đó. Anh nghe được tiếng chim, tiếng rì rầm của biển khơi...
Có nhiều thì giờ tịnh tâm và suy nghĩ, Tưởng có một thời gian biểu khá đều đặn. Sáng “văn ôn võ luyện” - nghĩa là làm thơ và tập thể dục. Chiều: ôn lại các bài học từ trường, từ trong chiến khu.
Buổi tối, dành cho việc kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác đã làm! Trước khi ngủ, anh luôn nhắc mình:
- Như vậy hôm nay mình còn sống. Biết đâu ngày mai chúng phải giảm án. Biết đâu cách mạng thắng lớn, chúng bỏ chạy trước khi thi hành án.
Anh vẫn tin rằng có thể sống và sống cho đến ngày chiến thắng. Vì vậy phải giữ gìn sức khỏe, phải “văn ôn võ luyện” để làm việc khi thoát khỏi nhà tù.
Đêm nay, Tưởng tập trung rút kinh nghiệm việc để địch bắt và khép án tử hình. Đó là lần thứ tư anh về căn cứ học tập. Ba lần trước anh đi và về trót lọt. Từ thành phố anh đi xe đò đến Củ Chi. Tối có giao liên đưa anh về xóm thuốc An Phú.
Cơ sở giao cho anh một chiếc xe đạp và đạp theo cô giao liên như hai vợ chồng đi ruộng. Rạng sáng đến ven sông Sài Gòn có ghe chở sang Bến Cát. Từ đây anh và các bạn nhập thành một đoàn đạp xe về R. Tất cả đều trùm mặt để ngăn cách. Từ hôm đó cho đến ngày về, ai cũng phải trùm tấm khăn rằn chỉ chừa hai lỗ để lộ hai con mắt. Mọi người đều giữ gìn cho nhau và cho mình.
Vậy mà lần thứ tư anh phạm lỗi. Tưởng có một cô bạn gái học trung học, cũng gan lì cũng xông xáo trong các cuộc đấu tranh. Lần này đi học có hơi lâu nên anh không thể giấu người bạn gái. Anh chia tay cô bạn trong một quán cóc.
Một tên phản bội nhận ra Tưởng. Tuần sau thấy vắng anh, bọn địch bắt cô bạn gái của Tưởng, đánh rất dữ, bắt khai sự vắng mặt của anh ở Sài Gòn. Cô gái không chịu nổi cực hình khai anh về R. Chúng đã phục kích bắt anh khi ngồi chờ xe bên đường thị trấn Củ Chi.
Tên phản bội đã khai hết chức vụ, công việc và nhất là những lần anh diệt ác ôn và đốt xe Mỹ. Ra trước tòa, anh ngẩng cao đầu nhận trách nhiệm với lời thách thức: “Mỹ xâm lược nước Việt Nam thì bất cứ người Việt Nam nào cũng có nghĩa vụ phải tiêu diệt bọn xâm lược. Tôi làm, tôi chịu trách nhiệm”. Tòa án quân sự tuyên án anh tội tử hình và đày ra Côn Đảo...
Bài học xương máu của anh là đã hoạt động bí mật thì phải biết giữ gìn tất cả công việc cách mạng. Anh thương cô bạn gái. Hôm ra tòa cô gục đầu khóc nức nở. Và khi được tin anh bị án tử hình cô đã uống thuốc ngủ tự tử.
May mà gia đình cứu kịp. Lỗi ở anh - người hoạt động bí mật không biết giữ gìn. Cô gái học sinh dám yêu anh đã là dũng cảm, còn trước kẻ thù độc ác nham hiểm thì khó lòng tránh sơ hở...
Ánh nắng buổi sáng đã lọt qua lỗ hổng trên cao. Bầy chim sẻ ríu rít chuyền qua lại các lỗ hổng. Anh ngẩng mặt hít một hơi dài. Anh lại nhắc mình: đã làm cách mạng thì “sống là đây, mà chết cũng là đây”…
Bỗng nghe một tiếng động nhẹ. Tưởng lồm cồm bò dậy nhìn chung quanh phòng giam. Một con chim sẻ nhỏ có lẽ từ trong cái tổ trên lỗ hổng đã rơi xuống đất.
Bỗng Tưởng giật mình. Có tiếng chim kêu lớn. Chắc chim mẹ, chim bố đã về thấy mất con nên kêu la rất dữ. Con chim nhỏ cũng đáp lại và nhảy lung tung trong phòng.
Tim người tù bỗng thắt lại. Bây giờ ba má anh và cô bạn gái cũng đang đau xót như hai con chim kia khi mất con. Chúng làm sao cứu được con một khi rơi vào giữa bốn bức tường vừa cao vừa dày này! Con chim mẹ bạo gan hơn bay vào xà lim lượn mấy vòng rồi lại chui ra lỗ hổng. Tiếng kêu nghe nát cả lòng.
Con chim ở với người tù được hai ngày. Chẳng có việc gì, Tưởng đếm từng chiếc lông chim non và đo độ dài từng chiếc lông. Anh mừng rỡ vì thấy chim non đã lớn và mạnh lên nhưng cũng phải năm bảy ngày nữa mới có đủ sức bay qua lỗ hổng ấy ra ngoài.
Bây giờ nỗi lo của Tưởng là: nếu anh ra trường bắn trước lúc chim có thể tự bay thì ai sẽ lo cho chim?
Tưởng bắt đầu tập cho chim bay. Anh tung nó lên cao rồi lại tung lên cao. Chim té lên té xuống nhưng cũng đã bay loạng choạng.
Như thường lệ, người lính gác mở cửa đưa cơm cho Tưởng. Anh ta rất ngạc nhiên khi thấy anh chăm sóc con chim và cho nó tập bay. Người lính không hung dữ như đồng bọn, bởi người tử tù cộng sản không la hét, không nặng nhẹ với anh.
- Thân mình chẳng lo, lại lo cho con chim nhỏ. Anh nghỉ đi cho tỉnh trí.
Tưởng nói chân thành:
- Làm cách mạng, tôi đã tính đến ngày này rồi, lo làm chi cho mệt. Chỉ lo con chim này không được về với bố mẹ.
Thế rồi ngày anh chờ đã đến. Sáng sớm, người lính đem cho anh một bữa cơm thịnh soạn. Mắt anh ta đỏ hoe.
- Ăn đi. Hôm nay đến lượt anh...
Rất bình tĩnh, Tưởng ngồi nhâm nhi từng miếng thịt, miếng bánh - ân huệ trước lúc ra pháp trường.
Anh cầm con chim nhỏ, bón từng mẩu bánh. Anh đứng dậy tung con chim, mong nó bay lọt ra lỗ hổng.
Chim đã bay được hai vòng nhưng nó lại sà xuống bên anh. Chắc nó không biết sau cái lỗ sáng nhỏ nhoi kia lại là bầu trời tự do, tràn ngập không khí, là nơi bố mẹ nó đang chờ. Con chim non lại nằm gọn trong tay anh.
- Tao sắp đi rồi, mày ở đây một mình thì chết mất. Chẳng có gì ăn để lớn mà bay lên.
Tưởng cẩn thận bỏ con chim nhỏ vào túi áo tù. Cửa tù mở. Người lính gác còng hai tay anh. Anh cố đảo mắt tìm con chim nhỏ. Người lính đâu biết con chim non đang ngủ ngon lành trong hơi ấm của người tử tù.
Tưởng cố gắng cong bàn tay mặc cho chiếc còng siết khá đau. Anh cho tay vào túi, nhẹ nhàng nắm con chim nhỏ. Anh xòe bàn tay trước bụng. Con chim vẫn nằm yên đưa đôi mắt ngơ ngác nhìn bầu trời nắng chói. Một tên lính thấy trên tay anh có con chim non.
- Làm gì vậy?
Tiếng quát lớn của tên lính làm con chim giật mình, vỗ cánh bay rồi sà xuống bãi cỏ.
Tưởng bước hiên ngang ra cọc bắn.
Một tên lính cầm băng đen đến bên anh. Tưởng cười lạt:
- Khỏi cần bịt mắt.
Anh quay đầu nhìn một vòng pháp trường rực nắng. Bầu trời xanh ngắt, từng đàn chim sẻ bay lên đáp xuống rộn rã. Có một tốp năm bảy con chim đến gần chỗ anh đứng. Tưởng đã nhìn thấy mấy khẩu súng chĩa vào anh...
- Hồ Chủ tịch muôn năm!
- Việt Nam muôn năm!
Tiếng súng nổ làm đàn chim giật mình bay lên tung tóe. Vậy mà vẫn có một con chim sẻ đứng yên. Có lẽ con chim lần đầu nghe tiếng súng nên quá sợ không bay lên nổi. Cũng có thể đó là chim non ở lại để tiễn biệt người tử tù đã nuôi nấng và trả tự do cho nó trong buổi sáng anh vĩnh viễn ra đi…
ĐINH PHONG