Trong khi Đoàn thanh tra liên ngành của TP đang tiến hành thanh tra trách nhiệm công vụ của Phó Giám đốc Sở Y tế Lê Trường Giang trong vụ nước tương đen, thì theo điều tra của Báo SGGP, hoạt động của Ủy ban Phòng chống (UBPC) AIDS do ông Lê Trường Giang điều hành trên cương vị là Phó Chủ tịch thường trực, lại có nhiều khuất tất trong tổ chức bộ máy và quản lý tài chính.
Từ nhập nhèm bộ máy
Năm 1990 sau khi phát hiện ca nhiễm HIV/AIDS đầu tiên thì UBPC AIDS quốc gia và UBPC AIDS TPHCM được thành lập. Nhưng do tình hình dịch bệnh HIV/AIDS ngày càng gia tăng, vào tháng 12-1997 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định (QĐ) 1122 để kiện toàn bộ máy, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của UBPC AIDS quốc gia và của các cấp, các ngành.
Theo đó, các tỉnh thành phải thành lập UBPC AIDS. Trên cơ sở này, năm 1999 UBND TP ra Quyết định 3496 nhằm kiện toàn UBPC AIDS của thành phố. Năm 2000 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành QĐ số 61, thay thế QĐ 1122, thì UBPC HIV/AIDS ở các tỉnh thành phải giải thể để thành lập Ban Chỉ đạo (BCĐ) phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm.
Trong khi các địa phương đã hợp nhất để thành lập BCĐ, thì TPHCM vẫn tồn tại UBPC HIV/AIDS, năm 2005 còn được kiện toàn bộ máy, nhân sự và ông Lê Trường Giang, Phó Giám đốc Sở Y tế được cử làm Phó Chủ tịch Thường trực! Đầu tháng 4-2007, Thủ tướng tiếp tục ban hành QĐ số 50 về việc kiện toàn Ủy ban Quốc gia, phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm.
Mới đây trong cuộc họp bàn về công tác phòng chống AIDS với sự có mặt của Phó Chủ tịch thường trực UBPC AIDS Lê Trường Giang, BS Nguyễn Hữu Luyến, Trưởng khoa Phòng chống HIV/AIDS – Trung tâm Y tế dự phòng TPHCM thẳng thắn nói: Chức năng của UBPC AIDS hiện nay dựa vào văn bản đã hết hiệu lực pháp luật.
Hoạt động của UBPC AIDS hiện nay chưa tách bạch rõ giữa công việc quản lý nhà nước với hoạt động y tế. Nhiều ý kiến cho rằng, quyết định của Chính phủ đã rõ ràng như thế không hiểu sao ở TPHCM vẫn tồn tại UBPC HIV/AIDS? Tiếp đó, BS Lê Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng TP đã có tờ trình gửi Giám đốc Sở Y tế đề nghị xem lại tại sao chỉ quản lý có một bệnh nhân HIV/AIDS mà UBPC AIDS dùng tới cả trăm người (gần bằng bộ máy của Văn phòng Sở Y tế)?
Đến nhập nhèm tài chính
Theo báo cáo của UBPC AIDS TP, trong năm 2005 đơn vị này đã ký với đối tác (các tổ chức nước ngoài) 37 tỷ đồng (sử dụng hết 28 tỷ đồng), năm 2006 ký được 56,4 tỷ đồng. Ngoài ra, UBPC AIDS TP giao cho sở ngành và các quận huyện còn trực tiếp ký với các đối tác trên 4 tỷ đồng (năm 2006). Như vậy, chỉ tính năm 2006 UBPC AIDS TP đã thu được 60 tỷ đồng (kinh phí này chưa bao gồm thuốc điều trị ARV do tổ chức Pepfar tài trợ).
Tuy tiền tài trợ nhiều, nhưng số người nhiễm HIV không hề giảm. Theo BS Nguyễn Hữu Luyến, từ năm 2000 đến nay TPHCM đã không ngăn chặn được tình trạng lây nhiễm HIV mới. Cụ thể khi dịch bùng phát năm 1993, TP phát hiện 631 ca, đến 1999 số lây nhiễm mới là 1.164 ca (tăng 1,8 lần) nhưng đến năm 2006 phát hiện gần 8.000 ca tăng gấp 7 lần so với năm 1999.
Lý giải sự gia tăng này, BS Luyến cho rằng: Mạng lưới y tế dự phòng hầu như bị “buộc” phải đứng ngoài cuộc trước đại dịch AIDS. Còn mạng lưới phòng chống AIDS trong ngành y tế từ quận huyện xuống phường xã gần như bị tê liệt từ năm 2000 đến nay. Không chỉ thế, theo BS Luyến việc sử dụng tài chính của UBPC AIDS TP không rõ ràng: Báo cáo của UBPC AIDS cho Ban Thường vụ Thành ủy, HĐND TP, UBND TP năm 2005 cho biết phải chi cho việc thực hiện kế hoạch hồi gia năm đầu tiên (2005) là 800.000 USD (khoảng 12,5 tỷ đồng) và chi để chăm sóc chữa trị người nhiễm HIV tái hòa nhập cộng đồng khoảng 5 triệu USD/năm kể từ năm 2006 (hơn 75 tỷ đồng).
Chưa hết, năm 2004 UBPC AIDS TP báo cáo chi cho dự án DFID (dự án phòng lây nhiễm) là 2 tỷ đồng nhưng chỉ khám được cho hơn… 10 bệnh nhân. Để hợp thức hóa Bệnh viện Da liễu phải kê… khống 350 bệnh nhân!
Sự việc chưa dừng ở đây, tháng 2 năm 2007, sau khi kiểm tra, Thanh tra Sở Y tế TPHCM đã phát hiện các chế độ lương của 80% CB-CNV đang làm việc tại 16 Trung tâm tham vấn cộng đồng (TTTVCĐ) ở các quận huyện hưởng không rõ ràng, chưa có quy chế tuyển dụng. Về tài chính, các TTTVCĐ chưa quản lý tốt, báo cáo không đúng nội dung, nhiều nơi đã xảy ra tiêu cực…
Đáng lưu ý là 16 TTTVCĐ được lập do yêu cầu của UBPC AIDS TP (đến nay, tổng cộng UBPC AIDS đã thành lập được 38 TTTVCĐ). Trong khi đó theo Thanh tra Sở Y tế TPHCM, QĐ số 61 ban hành năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ thì UBPC HIV/AIDS không có chức năng nhiệm vụ yêu cầu các quận, huyện thành lập TTTVCĐ. Vì thế ngay từ đầu năm 2007, Thanh tra Sở Y tế đề nghị Sở Y tế chỉ đạo thanh kiểm tra hoặc kiểm toán về công tác quản lý tài chính đối với các TTTV và UBPC HIV/AIDS, nhưng yêu cầu này đã bị “lãng quên”.
Trần Toàn